Bạn đang xem: Làng văn, sư phạm tại bangtuanhoan.edu.vn
Ở xứ Nghệ, nhiều làng nổi tiếng giàu có theo đạo Thiên Chúa, làng Tiên Điền theo Nho giáo và thờ Thánh. Việc đọc sách ở ngôi làng này được đánh giá cao và tôn trọng đến mức nó trở thành một ngôi nhà tôn giáo.
Khoảng năm 1592, Nam Dương Công (tên thật là Nguyễn Nhiệm), làm quan dưới trướng nhà Mạc, quê ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, Hà Đông, vì chống nhà Lê nên bỏ chạy vào xứ Nghệ để lập nghiệp. . nhà ở thôn Vó. Điền – một khu định cư bên bờ sông Cả đầy ao hồ, cát bạc và cây dại. Ông cùng con cháu đắp đập ngăn nước mặn, khơi thông kinh dẫn nước ngọt về Hồng Lĩnh để cải tạo đồn điền. Đầu thế kỷ XVII, Võ Điền đổi tên là Hữu Điền, Tân Điền, Phú Điền, rồi Xuân Tiên, Tiên Điền. Theo sách “Nghĩa Xuân Di”, xưa “Tiên Điền là lũy, nhà nối tiếp nhau, hàng răng tổ ong, người tấp nập, búa đầy khí thế”.
Ở xứ Nghệ, nhiều làng nổi tiếng giàu có theo đạo Thiên Chúa, làng Tiên Điền theo Nho giáo thờ Chúa. Việc đọc sách ở ngôi làng này được đánh giá cao và tôn trọng đến mức nó trở thành một ngôi nhà tôn giáo. Ngay cả những bia đá, đình làng, hoành phi, câu đối, bia làng cũng bộc lộ nét Văn – Nho, phản ánh nét văn hóa của người Tiên Điền.
Các đình trước đền Tiên Linh, có viết: “Quốc gia lưu danh/ Duy tình lưu tại lòng người” (Danh sử sử sách/ Tình lưu lại trong lòng người). Câu đối trước đền Lê Ngự Sử là: “Ca hổ nhân sách/ Đằng long đình nghiệp”. Tảng đá trước miếu Nguyên Lãm Khê Hầu có ghi ba chữ: “Tấn Thiện Gia” (Nhà này góp công làm việc thiện.) Trước miếu Diên Nhạc Hầu có bài đề: “Cổ Hoàng vinh hiển/ Công tư khanh ” (Chính phủ công minh, liêm khiết/ Trung với dân).
Chữ nghĩa ở Tiên Điền còn thể hiện ở nguyên tắc cách mạng, gia đình nông dân, văn học (trường dã chiến). Ngoài ra còn có vườn mùa hè, vườn hiến tế, vườn hiến tế và vườn xuân và thu. Ở Tiên Điền, vai trò trung tâm của nhà công vụ không dành cho người già mà dành cho những người đi đất khách có cơ hội dạy bảo lớp trẻ.
Làng Tiên Điền là nơi xuất phát của các lễ hội cổ truyền, lễ chúc thọ, khai hạ, tế xuân, tế khoa… Tục ngữ, hát ví, giặm, ca trù, hó, ve, tuồng, chèo… Tất cả đã góp phần làm cho làng đứng vững: “Hồng Lĩnh, Sơn Cao/ Song Ngư, Hải Kiều/ Nhược Trí, khôn thời gian./ Hiền tài, tứ phương” (Hồng Lĩnh núi cao/ Song Ngư hòn đảo giữa biển/ Vua hiền gặp hiền/ Kẻ tài tranh nhau, “Nghi Xuân địa”).
GS. Nhà chuyên khảo địa chất Nguyễn Thiều Lâu (1916 – 1967) cho biết: “Theo quan niệm kỳ lạ về phong cảnh châu Á, hai làng Tiên Điền và Uy Viễn (tư trấn Nguyễn Công Trứ) nằm trong vùng của cát và gió. mùa. điều kiện phong thủy để tạo ra tài sản” (Tạp chí Văn hóa Châu Á; số 31/31/1959).
Đặc biệt thời Lê – Nguyễn, Tiên Điền có 6 người đỗ đại khoa, 26 người đỗ cử nhân, 11 người đỗ tú tài, 3 người được tô thuế, 3 người được thăng quan (thăng thăng trực tiếp nhưng không đi). bài thi). ). Hầu hết họ đều là tướng lĩnh, thủ lĩnh, phi tần, phi tần của các đại gia tộc: Nguyễn, Trần, Hoàng, Lê, Hạ.
Riêng dòng họ Nguyễn có khoảng 40 người làm quan, trong đó có 6 vị cao niên: Nguyễn Nghiễm, thân sinh Nguyễn Du, sinh năm 1708, đỗ Hoàng giáp khoa Tân Hợi (1731), mất năm Ất Mùi (1775) . ). . Năm 1780, ông được phong Thượng đẳng thần và mất sau đó: “Vương – Luân – Khang – Tế – Đức – Vọng”. -Lương.” Nguyễn Nghiễm đã truyền lại cho con cháu truyền thống sống và tình yêu văn chương, tạo nên một dòng dõi hiển hách chưa từng có ở xứ Nghệ và Thăng Long đương thời.
Cư sĩ Nguyễn Khản (1734 – 1786) đỗ tiến sĩ năm Canh Thìn (1760), làm trưởng Tửu. Nguyễn Diêu (1745 – 1786), ba lần đỗ hội thi, đỗ bốn trường, được tặng Thị nội văn trạng nguyên. Nguyễn Đệ (1761 – 1805), ba lần đỗ đầu trong các kỳ thi hội ở trường Phụng Thiên; Năm 1783, ông được bổ làm Hiệp trấn quân sự trấn thủ Sơn Tây. Nguyễn Thiện (1763 – 1823) 21 tuổi đã qua bốn trường.
Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765). Thời vua Gia Long có ba tổng Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng làm trấn Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội). Năm Ất Sửu (1805), ông được thăng Đông các Đại thần, thụy là Du Đức hầu. Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông xin về quê dưỡng bệnh. Năm Kỷ Tỵ (1809), ông về làm quan cho nhà Nguyễn, được bổ làm Cai bạ Quảng Bình, năm 1813 được thăng Cần Chính điện Đại học sĩ, làm quan lớn trong nhà Thanh. Triều, ông về nước và được thăng Hữu Tham. Một nhánh của truyền thống. Ông mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (1820) hưởng thọ 55 tuổi.
Nguyễn Hành (1771 – 1824), một trong An Nam Ngũ Đại Sĩ; đối với Nguyễn Nghi (1773 – 1845), Nguyễn Mại (1876 – 1954) tên tuổi và phẩm chất còn lưu danh muôn đời.
Các họ Nguyễn ở làng Tiên Điền đều đỗ đại khoa, đỗ đầu, có người là danh nhân, có tên tuổi, có tác phẩm đi vào lịch sử văn học Việt Nam. Sách cũ còn lại không nhiều, các bài viết sau sẽ không đủ: “Nam Dương Kinh lược” của Nguyễn Nhiệm; “Bản dịch Kinh Đô”, “Đại hiếu” của Nguyễn Quỳnh; “Quân Trung Liên Vinh”, “Xuân Đỉnh Tập Vinh”, “Lạng Sơn Đoàn Thành Đồ Chí”, “Cổ Liên Chương Thi Văn Tập”, “Việt Nam Sử Lược”, “Giấc mộng Khổng Tử Chu Công” của Nguyễn Nhiễm; “Bản dịch phần Việt Nam” (Đặng Trần Côn) của Nguyễn Khản; “Tiền sản”, “Nữ hoàng sưu tầm” của Nguyễn Đệ; “Châu Trần Di Cảo”, “Trung thần” của Nguyễn Nghi; “Động Phù Thị Tập”, “Huyền Cơ Đạo Thuật bí thư”, “Truyền Hoa Tiên” (Nguyễn Sắc bản của Nguyễn Huy Tự) của Nguyễn Thiện; “Minh Quyền Thiết”, “Quan Đông Hải Tập”, “Thiên Địa Kinh Thư” của Nguyên Không; “Thanh Hiên Thiết”, “Nam Trung Di”, “Bắc Hành Tạp Lục”, “Đoạn Trường Tân Thanh” (Truyện Kiều), “Văn Chiến Hồn”, “Vân Trường Lưu Nhị Nữ, Tiên Điền tạp” của Nguyễn Du … Những điều trên đã bộc lộ rõ thế lực tri thức của họ Nguyễn ở làng Tiên Điền.
… Cùng thời họ Nguyễn ở làng Tiên Điền, thuộc Nghi Xuân (Hà Tĩnh), ven núi Hồng Lĩnh (Can Lộc, Hà Tĩnh) có một người làng Trường Lưu với danh gia vọng tộc họ Nguyễn. Huy, thủ trưởng. của quản gia ở Trà Sơn. . : Thám hoa Nguyễn Huy Oánh (1713 – 1789) Các tiểu thuyết gia Việt Nam thế kỷ 18, Nguyễn Huy Tự (1743 – 1790), Nguyễn Huy Hổ (1783 – 1841), Nguyễn Huy Quýnh (1734) – 1734 Phổ (1765 – 1838) có nhiều tác phẩm, trong đó nổi tiếng là các dòng thơ Nôm lục bát và song thất lục bát như: “Đào nữ tứ ca”, “Dược tính của long khúc” của Nguyễn Huy Oánh; “Giọt chữ người con gái phường Trường Lưu”, “Thuận Quảng đạo sử” của Nguyễn Huy Quýnh; “Hoa tiên” của Nguyễn Huy Tự; “Giấc mơ ban mai” của Nguyễn Huy Hồ…
Các tác phẩm nói trên là “song thất” (chữ dùng của GS Nguyễn Huệ Chi) và gia phả Nguyễn Tiên Điền: “Thác trai phường nón” của Nguyễn Du; “Hoa tiên” của Nguyễn Thiện, “Quan trung đối” của Nguyễn Nghi…
Về sự tương tác này, PGS. Hoàn Xuân Hãn viết: “Tương tự, ta sẽ thấy vào cuối Lê có một trường văn học quanh Hồng Sơn đã cho ra đời ba bộ sách hay nhất về văn học (Mai Đình mộng lục). . , “Hoa Tiên”, “Truyện Kiều” – tác giả) nhưng “Truyện Kiều” là đoạn cuối của trường văn” (Dẫn nhập Truyện Kiều – 200 năm nghiên cứu và bàn luận về Truyện Kiều; Nxb Giáo dục), 2005 ; tr.30).
Sang đầu thế kỷ 21, hai cổ vật văn hóa mà dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu để lại cho hậu thế đã trở thành bảo vật công cộng: “Mộc bản Trường Phúc Giang” và cuốn sách cổ “Sứ Hoàng Hoa Sứ”. “. ” đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu thuộc Chương trình Ký ức Toàn cầu khu vực Châu Á/Thái Bình Dương.
Nhớ copy bài này: Làng văn, khoa của website bangtuanhoan.edu.vn
Chuyên mục: Phong Thủy
Thêm đóng góp vào cuối năm 2022 tại đây: Cungtatnien.com
#Làng #vănhọc #chương #khoa #bảng
Làng văn chương, khoa bảng
Hình Ảnh về: Làng văn chương, khoa bảng
Video về: Làng văn chương, khoa bảng
Wiki về Làng văn chương, khoa bảng
Làng văn chương, khoa bảng -
Bạn đang xem: Làng văn, sư phạm tại bangtuanhoan.edu.vn
Ở xứ Nghệ, nhiều làng nổi tiếng giàu có theo đạo Thiên Chúa, làng Tiên Điền theo Nho giáo và thờ Thánh. Việc đọc sách ở ngôi làng này được đánh giá cao và tôn trọng đến mức nó trở thành một ngôi nhà tôn giáo.
Khoảng năm 1592, Nam Dương Công (tên thật là Nguyễn Nhiệm), làm quan dưới trướng nhà Mạc, quê ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, Hà Đông, vì chống nhà Lê nên bỏ chạy vào xứ Nghệ để lập nghiệp. . nhà ở thôn Vó. Điền - một khu định cư bên bờ sông Cả đầy ao hồ, cát bạc và cây dại. Ông cùng con cháu đắp đập ngăn nước mặn, khơi thông kinh dẫn nước ngọt về Hồng Lĩnh để cải tạo đồn điền. Đầu thế kỷ XVII, Võ Điền đổi tên là Hữu Điền, Tân Điền, Phú Điền, rồi Xuân Tiên, Tiên Điền. Theo sách "Nghĩa Xuân Di", xưa "Tiên Điền là lũy, nhà nối tiếp nhau, hàng răng tổ ong, người tấp nập, búa đầy khí thế".
Ở xứ Nghệ, nhiều làng nổi tiếng giàu có theo đạo Thiên Chúa, làng Tiên Điền theo Nho giáo thờ Chúa. Việc đọc sách ở ngôi làng này được đánh giá cao và tôn trọng đến mức nó trở thành một ngôi nhà tôn giáo. Ngay cả những bia đá, đình làng, hoành phi, câu đối, bia làng cũng bộc lộ nét Văn - Nho, phản ánh nét văn hóa của người Tiên Điền.
Các đình trước đền Tiên Linh, có viết: “Quốc gia lưu danh/ Duy tình lưu tại lòng người” (Danh sử sử sách/ Tình lưu lại trong lòng người). Câu đối trước đền Lê Ngự Sử là: “Ca hổ nhân sách/ Đằng long đình nghiệp”. Tảng đá trước miếu Nguyên Lãm Khê Hầu có ghi ba chữ: “Tấn Thiện Gia” (Nhà này góp công làm việc thiện.) Trước miếu Diên Nhạc Hầu có bài đề: “Cổ Hoàng vinh hiển/ Công tư khanh ” (Chính phủ công minh, liêm khiết/ Trung với dân).
Chữ nghĩa ở Tiên Điền còn thể hiện ở nguyên tắc cách mạng, gia đình nông dân, văn học (trường dã chiến). Ngoài ra còn có vườn mùa hè, vườn hiến tế, vườn hiến tế và vườn xuân và thu. Ở Tiên Điền, vai trò trung tâm của nhà công vụ không dành cho người già mà dành cho những người đi đất khách có cơ hội dạy bảo lớp trẻ.
Làng Tiên Điền là nơi xuất phát của các lễ hội cổ truyền, lễ chúc thọ, khai hạ, tế xuân, tế khoa... Tục ngữ, hát ví, giặm, ca trù, hó, ve, tuồng, chèo... Tất cả đã góp phần làm cho làng đứng vững: “Hồng Lĩnh, Sơn Cao/ Song Ngư, Hải Kiều/ Nhược Trí, khôn thời gian./ Hiền tài, tứ phương” (Hồng Lĩnh núi cao/ Song Ngư hòn đảo giữa biển/ Vua hiền gặp hiền/ Kẻ tài tranh nhau, “Nghi Xuân địa”).
GS. Nhà chuyên khảo địa chất Nguyễn Thiều Lâu (1916 - 1967) cho biết: “Theo quan niệm kỳ lạ về phong cảnh châu Á, hai làng Tiên Điền và Uy Viễn (tư trấn Nguyễn Công Trứ) nằm trong vùng của cát và gió. mùa. điều kiện phong thủy để tạo ra tài sản" (Tạp chí Văn hóa Châu Á; số 31/31/1959).
Đặc biệt thời Lê - Nguyễn, Tiên Điền có 6 người đỗ đại khoa, 26 người đỗ cử nhân, 11 người đỗ tú tài, 3 người được tô thuế, 3 người được thăng quan (thăng thăng trực tiếp nhưng không đi). bài thi). ). Hầu hết họ đều là tướng lĩnh, thủ lĩnh, phi tần, phi tần của các đại gia tộc: Nguyễn, Trần, Hoàng, Lê, Hạ.
Riêng dòng họ Nguyễn có khoảng 40 người làm quan, trong đó có 6 vị cao niên: Nguyễn Nghiễm, thân sinh Nguyễn Du, sinh năm 1708, đỗ Hoàng giáp khoa Tân Hợi (1731), mất năm Ất Mùi (1775) . ). . Năm 1780, ông được phong Thượng đẳng thần và mất sau đó: "Vương - Luân - Khang - Tế - Đức - Vọng". -Lương.” Nguyễn Nghiễm đã truyền lại cho con cháu truyền thống sống và tình yêu văn chương, tạo nên một dòng dõi hiển hách chưa từng có ở xứ Nghệ và Thăng Long đương thời.
Cư sĩ Nguyễn Khản (1734 - 1786) đỗ tiến sĩ năm Canh Thìn (1760), làm trưởng Tửu. Nguyễn Diêu (1745 - 1786), ba lần đỗ hội thi, đỗ bốn trường, được tặng Thị nội văn trạng nguyên. Nguyễn Đệ (1761 - 1805), ba lần đỗ đầu trong các kỳ thi hội ở trường Phụng Thiên; Năm 1783, ông được bổ làm Hiệp trấn quân sự trấn thủ Sơn Tây. Nguyễn Thiện (1763 - 1823) 21 tuổi đã qua bốn trường.
Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765). Thời vua Gia Long có ba tổng Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng làm trấn Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội). Năm Ất Sửu (1805), ông được thăng Đông các Đại thần, thụy là Du Đức hầu. Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông xin về quê dưỡng bệnh. Năm Kỷ Tỵ (1809), ông về làm quan cho nhà Nguyễn, được bổ làm Cai bạ Quảng Bình, năm 1813 được thăng Cần Chính điện Đại học sĩ, làm quan lớn trong nhà Thanh. Triều, ông về nước và được thăng Hữu Tham. Một nhánh của truyền thống. Ông mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (1820) hưởng thọ 55 tuổi.
Nguyễn Hành (1771 - 1824), một trong An Nam Ngũ Đại Sĩ; đối với Nguyễn Nghi (1773 - 1845), Nguyễn Mại (1876 - 1954) tên tuổi và phẩm chất còn lưu danh muôn đời.
Các họ Nguyễn ở làng Tiên Điền đều đỗ đại khoa, đỗ đầu, có người là danh nhân, có tên tuổi, có tác phẩm đi vào lịch sử văn học Việt Nam. Sách cũ còn lại không nhiều, các bài viết sau sẽ không đủ: “Nam Dương Kinh lược” của Nguyễn Nhiệm; “Bản dịch Kinh Đô”, “Đại hiếu” của Nguyễn Quỳnh; “Quân Trung Liên Vinh”, “Xuân Đỉnh Tập Vinh”, “Lạng Sơn Đoàn Thành Đồ Chí”, “Cổ Liên Chương Thi Văn Tập”, “Việt Nam Sử Lược”, “Giấc mộng Khổng Tử Chu Công” của Nguyễn Nhiễm; “Bản dịch phần Việt Nam” (Đặng Trần Côn) của Nguyễn Khản; “Tiền sản”, “Nữ hoàng sưu tầm” của Nguyễn Đệ; “Châu Trần Di Cảo”, “Trung thần” của Nguyễn Nghi; “Động Phù Thị Tập”, “Huyền Cơ Đạo Thuật bí thư”, “Truyền Hoa Tiên” (Nguyễn Sắc bản của Nguyễn Huy Tự) của Nguyễn Thiện; “Minh Quyền Thiết”, “Quan Đông Hải Tập”, “Thiên Địa Kinh Thư” của Nguyên Không; "Thanh Hiên Thiết", "Nam Trung Di", "Bắc Hành Tạp Lục", "Đoạn Trường Tân Thanh" (Truyện Kiều), "Văn Chiến Hồn", "Vân Trường Lưu Nhị Nữ, Tiên Điền tạp" của Nguyễn Du … Những điều trên đã bộc lộ rõ thế lực tri thức của họ Nguyễn ở làng Tiên Điền.
… Cùng thời họ Nguyễn ở làng Tiên Điền, thuộc Nghi Xuân (Hà Tĩnh), ven núi Hồng Lĩnh (Can Lộc, Hà Tĩnh) có một người làng Trường Lưu với danh gia vọng tộc họ Nguyễn. Huy, thủ trưởng. của quản gia ở Trà Sơn. . : Thám hoa Nguyễn Huy Oánh (1713 - 1789) Các tiểu thuyết gia Việt Nam thế kỷ 18, Nguyễn Huy Tự (1743 - 1790), Nguyễn Huy Hổ (1783 - 1841), Nguyễn Huy Quýnh (1734) - 1734 Phổ (1765 - 1838) có nhiều tác phẩm, trong đó nổi tiếng là các dòng thơ Nôm lục bát và song thất lục bát như: “Đào nữ tứ ca”, “Dược tính của long khúc” của Nguyễn Huy Oánh; “Giọt chữ người con gái phường Trường Lưu”, “Thuận Quảng đạo sử” của Nguyễn Huy Quýnh; "Hoa tiên" của Nguyễn Huy Tự; “Giấc mơ ban mai” của Nguyễn Huy Hồ…
Các tác phẩm nói trên là “song thất” (chữ dùng của GS Nguyễn Huệ Chi) và gia phả Nguyễn Tiên Điền: “Thác trai phường nón” của Nguyễn Du; “Hoa tiên” của Nguyễn Thiện, “Quan trung đối” của Nguyễn Nghi...
Về sự tương tác này, PGS. Hoàn Xuân Hãn viết: “Tương tự, ta sẽ thấy vào cuối Lê có một trường văn học quanh Hồng Sơn đã cho ra đời ba bộ sách hay nhất về văn học (Mai Đình mộng lục). . , “Hoa Tiên”, “Truyện Kiều” - tác giả) nhưng “Truyện Kiều” là đoạn cuối của trường văn” (Dẫn nhập Truyện Kiều - 200 năm nghiên cứu và bàn luận về Truyện Kiều; Nxb Giáo dục), 2005 ; tr.30).
Sang đầu thế kỷ 21, hai cổ vật văn hóa mà dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu để lại cho hậu thế đã trở thành bảo vật công cộng: “Mộc bản Trường Phúc Giang” và cuốn sách cổ “Sứ Hoàng Hoa Sứ”. “. ” đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu thuộc Chương trình Ký ức Toàn cầu khu vực Châu Á/Thái Bình Dương.
Nhớ copy bài này: Làng văn, khoa của website bangtuanhoan.edu.vn
Chuyên mục: Phong Thủy
Thêm đóng góp vào cuối năm 2022 tại đây: Cungtatnien.com
#Làng #vănhọc #chương #khoa #bảng
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” text-align: left;”>Khoảng năm 1592, Nam Dương Công (tên thật là Nguyễn Nhiệm), làm quan dưới trướng nhà Mạc, quê ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, Hà Đông, vì chống nhà Lê nên bỏ chạy vào xứ Nghệ để lập nghiệp. . nhà ở thôn Vó. Điền – một khu định cư bên bờ sông Cả đầy ao hồ, cát bạc và cây dại. Ông cùng con cháu đắp đập ngăn nước mặn, khơi thông kinh dẫn nước ngọt về Hồng Lĩnh để cải tạo đồn điền. Đầu thế kỷ XVII, Võ Điền đổi tên là Hữu Điền, Tân Điền, Phú Điền, rồi Xuân Tiên, Tiên Điền. Theo sách “Nghĩa Xuân Di”, xưa “Tiên Điền là lũy, nhà nối tiếp nhau, hàng răng tổ ong, người tấp nập, búa đầy khí thế”.
Ở xứ Nghệ, nhiều làng nổi tiếng giàu có theo đạo Thiên Chúa, làng Tiên Điền theo Nho giáo thờ Chúa. Việc đọc sách ở ngôi làng này được đánh giá cao và tôn trọng đến mức nó trở thành một ngôi nhà tôn giáo. Ngay cả những bia đá, đình làng, hoành phi, câu đối, bia làng cũng bộc lộ nét Văn – Nho, phản ánh nét văn hóa của người Tiên Điền.
Các đình trước đền Tiên Linh, có viết: “Quốc gia lưu danh/ Duy tình lưu tại lòng người” (Danh sử sử sách/ Tình lưu lại trong lòng người). Câu đối trước đền Lê Ngự Sử là: “Ca hổ nhân sách/ Đằng long đình nghiệp”. Tảng đá trước miếu Nguyên Lãm Khê Hầu có ghi ba chữ: “Tấn Thiện Gia” (Nhà này góp công làm việc thiện.) Trước miếu Diên Nhạc Hầu có bài đề: “Cổ Hoàng vinh hiển/ Công tư khanh ” (Chính phủ công minh, liêm khiết/ Trung với dân).
Chữ nghĩa ở Tiên Điền còn thể hiện ở nguyên tắc cách mạng, gia đình nông dân, văn học (trường dã chiến). Ngoài ra còn có vườn mùa hè, vườn hiến tế, vườn hiến tế và vườn xuân và thu. Ở Tiên Điền, vai trò trung tâm của nhà công vụ không dành cho người già mà dành cho những người đi đất khách có cơ hội dạy bảo lớp trẻ.
Làng Tiên Điền là nơi xuất phát của các lễ hội cổ truyền, lễ chúc thọ, khai hạ, tế xuân, tế khoa… Tục ngữ, hát ví, giặm, ca trù, hó, ve, tuồng, chèo… Tất cả đã góp phần làm cho làng đứng vững: “Hồng Lĩnh, Sơn Cao/ Song Ngư, Hải Kiều/ Nhược Trí, khôn thời gian./ Hiền tài, tứ phương” (Hồng Lĩnh núi cao/ Song Ngư hòn đảo giữa biển/ Vua hiền gặp hiền/ Kẻ tài tranh nhau, “Nghi Xuân địa”).
GS. Nhà chuyên khảo địa chất Nguyễn Thiều Lâu (1916 – 1967) cho biết: “Theo quan niệm kỳ lạ về phong cảnh châu Á, hai làng Tiên Điền và Uy Viễn (tư trấn Nguyễn Công Trứ) nằm trong vùng của cát và gió. mùa. điều kiện phong thủy để tạo ra tài sản” (Tạp chí Văn hóa Châu Á; số 31/31/1959).
Đặc biệt thời Lê – Nguyễn, Tiên Điền có 6 người đỗ đại khoa, 26 người đỗ cử nhân, 11 người đỗ tú tài, 3 người được tô thuế, 3 người được thăng quan (thăng thăng trực tiếp nhưng không đi). bài thi). ). Hầu hết họ đều là tướng lĩnh, thủ lĩnh, phi tần, phi tần của các đại gia tộc: Nguyễn, Trần, Hoàng, Lê, Hạ.
Riêng dòng họ Nguyễn có khoảng 40 người làm quan, trong đó có 6 vị cao niên: Nguyễn Nghiễm, thân sinh Nguyễn Du, sinh năm 1708, đỗ Hoàng giáp khoa Tân Hợi (1731), mất năm Ất Mùi (1775) . ). . Năm 1780, ông được phong Thượng đẳng thần và mất sau đó: “Vương – Luân – Khang – Tế – Đức – Vọng”. -Lương.” Nguyễn Nghiễm đã truyền lại cho con cháu truyền thống sống và tình yêu văn chương, tạo nên một dòng dõi hiển hách chưa từng có ở xứ Nghệ và Thăng Long đương thời.
Cư sĩ Nguyễn Khản (1734 – 1786) đỗ tiến sĩ năm Canh Thìn (1760), làm trưởng Tửu. Nguyễn Diêu (1745 – 1786), ba lần đỗ hội thi, đỗ bốn trường, được tặng Thị nội văn trạng nguyên. Nguyễn Đệ (1761 – 1805), ba lần đỗ đầu trong các kỳ thi hội ở trường Phụng Thiên; Năm 1783, ông được bổ làm Hiệp trấn quân sự trấn thủ Sơn Tây. Nguyễn Thiện (1763 – 1823) 21 tuổi đã qua bốn trường.
Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765). Thời vua Gia Long có ba tổng Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng làm trấn Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội). Năm Ất Sửu (1805), ông được thăng Đông các Đại thần, thụy là Du Đức hầu. Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông xin về quê dưỡng bệnh. Năm Kỷ Tỵ (1809), ông về làm quan cho nhà Nguyễn, được bổ làm Cai bạ Quảng Bình, năm 1813 được thăng Cần Chính điện Đại học sĩ, làm quan lớn trong nhà Thanh. Triều, ông về nước và được thăng Hữu Tham. Một nhánh của truyền thống. Ông mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (1820) hưởng thọ 55 tuổi.
Nguyễn Hành (1771 – 1824), một trong An Nam Ngũ Đại Sĩ; đối với Nguyễn Nghi (1773 – 1845), Nguyễn Mại (1876 – 1954) tên tuổi và phẩm chất còn lưu danh muôn đời.
Các họ Nguyễn ở làng Tiên Điền đều đỗ đại khoa, đỗ đầu, có người là danh nhân, có tên tuổi, có tác phẩm đi vào lịch sử văn học Việt Nam. Sách cũ còn lại không nhiều, các bài viết sau sẽ không đủ: “Nam Dương Kinh lược” của Nguyễn Nhiệm; “Bản dịch Kinh Đô”, “Đại hiếu” của Nguyễn Quỳnh; “Quân Trung Liên Vinh”, “Xuân Đỉnh Tập Vinh”, “Lạng Sơn Đoàn Thành Đồ Chí”, “Cổ Liên Chương Thi Văn Tập”, “Việt Nam Sử Lược”, “Giấc mộng Khổng Tử Chu Công” của Nguyễn Nhiễm; “Bản dịch phần Việt Nam” (Đặng Trần Côn) của Nguyễn Khản; “Tiền sản”, “Nữ hoàng sưu tầm” của Nguyễn Đệ; “Châu Trần Di Cảo”, “Trung thần” của Nguyễn Nghi; “Động Phù Thị Tập”, “Huyền Cơ Đạo Thuật bí thư”, “Truyền Hoa Tiên” (Nguyễn Sắc bản của Nguyễn Huy Tự) của Nguyễn Thiện; “Minh Quyền Thiết”, “Quan Đông Hải Tập”, “Thiên Địa Kinh Thư” của Nguyên Không; “Thanh Hiên Thiết”, “Nam Trung Di”, “Bắc Hành Tạp Lục”, “Đoạn Trường Tân Thanh” (Truyện Kiều), “Văn Chiến Hồn”, “Vân Trường Lưu Nhị Nữ, Tiên Điền tạp” của Nguyễn Du … Những điều trên đã bộc lộ rõ thế lực tri thức của họ Nguyễn ở làng Tiên Điền.
… Cùng thời họ Nguyễn ở làng Tiên Điền, thuộc Nghi Xuân (Hà Tĩnh), ven núi Hồng Lĩnh (Can Lộc, Hà Tĩnh) có một người làng Trường Lưu với danh gia vọng tộc họ Nguyễn. Huy, thủ trưởng. của quản gia ở Trà Sơn. . : Thám hoa Nguyễn Huy Oánh (1713 – 1789) Các tiểu thuyết gia Việt Nam thế kỷ 18, Nguyễn Huy Tự (1743 – 1790), Nguyễn Huy Hổ (1783 – 1841), Nguyễn Huy Quýnh (1734) – 1734 Phổ (1765 – 1838) có nhiều tác phẩm, trong đó nổi tiếng là các dòng thơ Nôm lục bát và song thất lục bát như: “Đào nữ tứ ca”, “Dược tính của long khúc” của Nguyễn Huy Oánh; “Giọt chữ người con gái phường Trường Lưu”, “Thuận Quảng đạo sử” của Nguyễn Huy Quýnh; “Hoa tiên” của Nguyễn Huy Tự; “Giấc mơ ban mai” của Nguyễn Huy Hồ…
Các tác phẩm nói trên là “song thất” (chữ dùng của GS Nguyễn Huệ Chi) và gia phả Nguyễn Tiên Điền: “Thác trai phường nón” của Nguyễn Du; “Hoa tiên” của Nguyễn Thiện, “Quan trung đối” của Nguyễn Nghi…
Về sự tương tác này, PGS. Hoàn Xuân Hãn viết: “Tương tự, ta sẽ thấy vào cuối Lê có một trường văn học quanh Hồng Sơn đã cho ra đời ba bộ sách hay nhất về văn học (Mai Đình mộng lục). . , “Hoa Tiên”, “Truyện Kiều” – tác giả) nhưng “Truyện Kiều” là đoạn cuối của trường văn” (Dẫn nhập Truyện Kiều – 200 năm nghiên cứu và bàn luận về Truyện Kiều; Nxb Giáo dục), 2005 ; tr.30).
Sang đầu thế kỷ 21, hai cổ vật văn hóa mà dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu để lại cho hậu thế đã trở thành bảo vật công cộng: “Mộc bản Trường Phúc Giang” và cuốn sách cổ “Sứ Hoàng Hoa Sứ”. “. ” đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu thuộc Chương trình Ký ức Toàn cầu khu vực Châu Á/Thái Bình Dương.
Nhớ copy bài này: Làng văn, khoa của website bangtuanhoan.edu.vn
Chuyên mục: Phong Thủy
Thêm đóng góp vào cuối năm 2022 tại đây: Cungtatnien.com
#Làng #vănhọc #chương #khoa #bảng
[/box]
#Làng #văn #chương #khoa #bảng
Nhớ để nguồn: Làng văn chương, khoa bảng tại bangtuanhoan.edu.vn
Chuyên mục: Phong thủy