Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài v…

Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến
Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài v…

Hình Ảnh về: Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến
Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài v…

Video về: Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến
Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài v…

Wiki về Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến
Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài v…

Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến
Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài v… -

Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài văn mẫu hay nhất dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 

Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 1

     Nguyễn Khuyến và Dương Khuê sinh tiền là hai người bạn hết sức thân thiết và thấu hiểu lẫn nhau, cùng làm quan dưới thời Nguyễn trong buổi non sông có nhiều chuyển đổi, khiến các nhà trí thức đương thời có phần bất lực và chán nản, càng khiến hai người có chung niềm tâm tư, họ lại càng trở thành thân thiết hơn cả. Sự gắn bó, tri kỷ đó quả thực là hiếm có của đời người, chính vì lẽ đó nên lúc nghe hung tin Dương Khuê mất vì bệnh nặng, Nguyễn Khuyến đã hết sức sững sờ và đau buồn bởi từ nay chẳng còn lấy một người tri kỉ, tri kỷ cùng ông san sẻ những nỗi niềm tây trong cuộc đời. Nguyễn Khuyến đã viết bài thơ Khóc Dương Khuê để tỏ nỗi lòng tiếc thương, xót xa của mình dành cho người bạn quá cố.

     Dương Khuê (1839-1902), tự Giới Nhu, hiệu Vân Trì, là người văn hay chữ tốt, đỗ Cử Nhân cùng khóa với Nguyễn Khuyến, đỗ Tiến sĩ năm 1868 rồi ra làm quan, tuy nhiên cuộc đời làm quan của ông có nhiều thăng trầm biến động. Chán nản với cuộc đời quan chức ko mấy trót lọt ông cáo quan lúc 58 tuổi, lui về vui vầy với rượu, thơ, đàn xướng. Các tác phẩm của ông gồm có cả thơ chữ Hán, nhưng ca trù lại mang lại cho ông sự nổi tiếng hơn cả ví như có bài Gặp lại cô đầu cũ.

     Mở đầu bài thơ là sự hoang mang, sững sờ của Nguyễn Khuyến về sự ra đi đột ngột của Dương Khuê bạn mình.

“Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.”

     Nguyễn Khuyến gọi bạn mình bằng hai từ “Bác Dương” rất đỗi thân thiện, thân thiết, lại cũng trình bày những tình cảm trân trọng, quý mến vô cùng của những người đồng trang lứa, cách gọi đó tựa như lúc Dương Khuê vẫn còn sống nhưng hai người vẫn thường xưng hô với nhau. Cụm từ “Thôi đã thôi rồi”, từ “thôi” đầu trình bày nỗi nuối tiếc xót xa lúc vụt mất một thứ quan trọng nhất cuộc đời của Nguyễn Khuyến, từ “thôi” thứ hai là ngụ ý về sự ra đi của Dương Khuê. Nỗi đau mất bạn đó là nỗi đau “ngậm ngùi” âm ỉ cháy trong lòng, người ra đi khiến người ở lại phải day dứt, buồn thương vô cùng, nỗi đau đó ko chỉ khu trú trong tâm hồn tác giả nhưng tựa như nước chảy mây bay, lan tỏa khắp cùng trời cuối đất, rộng lớn vô cùng. Nhịp thơ, giọng điệu ở hai câu đầu nhẹ nhõm, thầm lặng như dàn trải, mang tới cảm giác trầm buồn, càng diễn tả thâm thúy nỗi đau mất bạn của Nguyễn Khuyến.

     Trong sự mất mát to lớn đó, Nguyễn Khuyến dần hồi ức về khoảng thời kì hai người còn bầu bạn, vui vầy.

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;

Mến yêu từ trước tới sau,

Trong lúc gặp mặt khác đâu duyên trời?

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;

Có lúc tầng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

Có lúc bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

Buổi dương cửu cùng nhau thiến nạn,

Phận đấu thăng chẳng dám tham trời”

     Nhớ làm sao ngày mới quen biết cùng nhau đỗ khoa cử, lại cùng nhau “sớm hôm” bàn luận chuyện đời, mối quan hệ, tình bạn tri kỷ của Dương Khuê và Nguyễn Khuyến là tình cảm kính trọng, quý mến, thấu hiểu lẫn nhau, “mến yêu từ trước tới sau”. Việc được gặp mặt và kết thành tri kỷ với Dương Khuê, Nguyễn Khuyến rất đỗi coi trọng, ví như “duyên trời” định sẵn, là mối cơ duyên trăm năm có một, đâu phải dễ dàng. Trước nỗi đau xót, nỗi tiếc thương vô hạn, Nguyễn Khuyến lại ngược bước về những năm tháng huy hoàng tuổi xanh của ông với người bạn quá cố. Còn đâu những năm tháng trẻ khỏe sung sức, hết “chơi nơi dặm khách”, lại vượt núi leo đồi nghe tiếng suối róc rách, rồi những buổi thư thả trên “tầng gác cheo leo” cùng nhau nghe những cô đầu ngân nga câu hát đào nương êm ái. Lại nhớ những ngày thâu đêm suốt sáng, cùng tri kỷ sẻ chia chén rượu quý thơm nồng, cùng nhau làm thơ, lại cùng nhau ngâm thơ, rồi bàn luận qua lại trước sau chau chuốt. Rồi những ngày cùng nhau vùi trong phòng sách nghiên cứu Tam phần ngũ điển để thấu hiểu cái đạo lý của người xưa. Rồi cả quãng đời cùng nhau đỗ khoa cử, cùng nhau đứng ra phụng sự triều đình, cái mũ ô sa trên đầu dẫu có nặng trăm bề, dẫu có rối ren và nhiều cớ sự bất mãn, đôi bạn tri kỷ cũng chỉ biết san sẻ, thấu hiểu, cùng sát cánh vượt qua chứ nào dám than vãn trước sau. Biết bao kỷ niệm quá đỗi xinh tươi, như mới chỉ ngày hôm qua đây thôi, nhưng nay người đã lại vội về chốn tây thiên cực lạc, Nguyễn Khuyến nghĩ nhưng thêm bổi hổi, thêm xót xa muôn phần.

     Thời trẻ trai, có sức, có lực lại có cả ý chí ngoan cường là thế, buổi về già mọi thứ đã ko còn được như trước, nhưng tình cảm tri kỷ của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vẫn ko hề chuyển dời, thậm chí còn vì xa cách nhưng ngày càng thêm thâm thúy, gắn bó hơn cả.

“Bác già, tôi cũng già rồi,

Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,

Trước ba năm gặp bác một lần;

Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác vẫn ý thức chưa can”

     Lúc tuổi đã cao, sức đã yếu thì những thú vui tuổi xanh dần trở thành những thứ xa xỉ, thậm chí vì xa cách nhưng cả hai người mãi mới có bận gặp nhau một lần, đấy cũng là 3 năm về trước. Tuy nhiên dẫu có xa, dẫu có lâu ko gặp thì tình bạn gắn bó keo sơn vẫn mãi ngự trị mãi trong ngực trái của cả hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, chưa một lần nguội lạnh. Họ vẫn thân thiết như xưa “Cầm tay hỏi hết xa gần”, dường như bao chuyện lâu nay ko được có người san sẻ đều tuôn ra hết trong lần gặp cuối đó, được thấy bạn mình vẫn khỏe mạnh, “ý thức chưa can” là niềm hạnh phúc vô bờ bến của những người tri kỷ. Có thể thấy rằng dẫu về già, ko còn gặp nhau được mấy lần nhưng Nguyễn Khuyến vẫn giữ gìn vẹn nguyên cái tình cảm tri kỉ đó, vẫn luôn hằng tưởng nhớ về người bạn tuổi xanh thường xuyên san sẻ tâm tình, cùng chung khổ nạn.

     Hồi ức càng nhiều, ký ức càng tươi đẹp bao nhiêu thì quay trở về với hiện thực tác giả lại càng phải đương đầu với hiện thực phũ phàng và đau xót bấy nhiêu, những mộng tưởng của ngày xưa đã vĩnh viễn đi vào quá khứ. Nguyễn Khuyến buộc phải đương đầu với hiện thức rằng Dương Khuê đã ra đi mãi mãi, ông đã mất đi người bạn quý giá nhất cả cuộc đời, giờ chỉ còn lại tấm thân già độc thân giữa thời thế tao loạn.

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày;

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe, tôi bỗng tay chân rụng rời”

     Ông ko khỏi ngậm ngùi, đau xót một nỗi tiếc thương rằng vì sao Dương Khuê vốn nhỏ tuổi hơn ông, lại bệnh tật cũng sau ông, thế nhưng chẳng hiểu sao “bác vội về ngay”, tin đó làm cho Nguyễn Khuyến sững sờ “tay chân rụng rời”, vì ko thể tin nổi trước hung tin như sét đánh ngang tai đó. Giờ đây bạn hiền đã về với miền cực lạc, để lại Nguyễn Khuyến một thân già với nỗi đớn đau, hụt hẫng và hoang mang vô cùng.

“Người nào chẳng biết chán đời là phải,

Vội vã sao đã mải lên tiên;

Rượu ngon ko có bạn hiền,

Ko sắm ko phải ko tiền ko sắm.

Câu thơ nghĩ đắn đo ko viết,

Viết đưa người nào, người nào biết nhưng đưa;

Giường kia treo những hững hờ,

Đàn kia gẩy cũng ngơ ngẩn tiếng đàn.”

     Bạn hiền đã mất, còn lại mình Nguyễn Khuyến với nỗi độc thân, trống vắng thì thiết tha gì những thú vui từng một thời say đắm, rượu ngon cũng trở thành vô vị, thú vui làm thơ cũng dần chán nản, bởi còn đâu người vừa ý để vui vầy, sẻ chia nữa. Tình cảm thắm thiết tri kỉ, tri kỷ đó sánh ngang với điển cố của người xưa như tình bạn giữa Trần Phồn – Từ Trĩ, như Tử Kỳ – Bá Nha, sâu nặng, ân nghĩa vô cùng.

     Trở lại với thực tại, trước vong linh người bạn hiền quá cố, Nguyễn Khuyến cuối cùng cũng đã thoát khỏi cái hồi ức xa xăm, trở về với hiện thực đớn đau, xót xa. Nhưng dẫu Dương Khuê có chết đi, thì tình cảm giữa hai người vẫn trường tồn mãi mãi, là thứ trân quý nhất trong cuộc đời nhưng Nguyễn Khuyến hằng trân trọng.

“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”

     Nỗi đớn đau đó đã ko thể chảy thành hàng lệ dài, nhưng Nguyễn Khuyến giấu nó vào trong góc sâu nhất của trái tim, để tưởng nhớ mãi về một người bạn hiền tri kỉ tri kỷ. Những câu thơ cuối là lời buông thật nhẹ nhõm, buồn tủi, là sự chấp nhận của tâm hồn thi sĩ trước sự ra đi của bạn mình. Thôi đành hứa kiếp sau lại được làm tri kỷ, kiếp này duyên trời coi như đã hết.

     Khóc Dương Khuê là bài thơ cảm động và thâm thúy của Nguyễn Khuyến viết để tưởng nhớ về người bạn quá cố, qua đó thấy được những tình cảm đáng quý, thiết tha sâu nặng giữa những người tri kỷ, đồng thời ngợi ca tình bạn thiêng liêng, trăm năm có một của thi sĩ. Bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ êm đềm, chậm rãi, ngôn từ giản dị, tác gỉa tinh tế sử dụng các điển tích điển cố một cách khôn khéo đã làm tăng sức thu hút của bài thơ, diễn tả thành công nỗi buồn của thi nhân đầy xót xa, suy tư và trầm lắng.

Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 2

    Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) để lại khoảng 800 bài thơ chữ Nôm và chữ Hán trong đó có ngót một trăm bài thơ viết về tình bạn. Có bài như “Bạn tới chơi nhà” thì hầu như người nào cũng biết. Viết về Dương Khuê (1839 — 1902) bạn chí thân của mình, Nguyễn Khuyến đã có bốn bài thơ chữ Hán. Riêng bài thơ thứ tư “Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư” (Viếng bạn đồng khoa là Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư) được tác giả dịch ra chữ Nôm thành bài “Khóc Dương Khuê”.

   Đây là bài thơ khóc bạn rất tha thiết cảm động của Nguyễn Khuyến cũng là bài thơ khóc bạn rất nổi tiếng trong nền thơ ca dân tộc. Dương Khuê là bạn đồng khoa với Nguyễn Khuyến tại khoa thi Hương năm 1864. Dương Khuê đỗ tiến sĩ, làm quan to, để lại nhiều bài thơ hát nói tuyệt bút. Từ bạn đồng khoa đã trở nên bạn tri kỉ tri kỉ nên Nguyễn Khuyến mới có thơ khóc bạn cảm động và tha thiêt tương tự. Có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ réo rắt thấm đầy lệ, gồm có 38 câu thơ.

    Mở đầu bài thơ là một tiếng than, tiếng nấc đớn đau:

    “Bác Dương thôi đã thôi rồi,

    Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”.

 Một sự thảng thốt xót thương cất lên, tưởng như bất thần bị đánh rơi mất một cái gì vô cùng quý báu. Nhóm từ “thôi đã thôi rồi” thay cho khái niệm “đã mất”, “đã chết”, “đã tạ thế” V.V.. một lối nói bình dị, làm cắt bớt đi nỗi đớn đau gớm ghê đối với tuổi già. Theo cách tính tuổi của các cụ ngày trước thì Dương Khuê mất lúc 63 tuổi, lúc đó Nguyễn Khuyến đã 68 tuổi rồi. Đúng là tiếng khóc bạn của những bậc cao niên. Hai chữ “nước mây” chỉ hai sự vật cách xa. Nước chảy, mây trôi, xa nhau vời vợi, nghìn trùng cách trở, có mấy lúc gặp nhau. Song, lòng nước chảy, dù đi đâu về đâu vẫn ôm ấp bóng mây trôi. Hình ảnh “nước mây” được liên kết với các từ láy “man mác”, “ngậm ngùi” diễn tả một trời thương xót, một ko gian cách trở rộng lớn, âm dương đôi đường, đau buồn, trĩu nặng.

    Chữ “bác” trong thơ Nguyễn Khuyến mang tính biểu cảm thâm thúy. Thi sĩ xoành xoạch gọi bạn bằng bác, trình bày một tấm lòng kính trọng và thân tình. Chữ “kính” và chữ “lễ” in đậm trong phong cách xử sự của Tam nguyên Yên Đổ: “Bác Dương thôi đã thôi rồi… Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác… Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở”…

    Phần thứ hai gồm 24 câu thơ, tác giả nhắc lại, nhớ lại những kỉ niệm thâm thúy với người đã quá cố. Với nhà nho thì bạn đồng khoa là bạn đẹp nhất, tự hào nhất. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng đỗ đạt, cùng làm quan, tình bạn đó là “duyên trời” tác thành nên:

    “Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

    Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.

    Mến yêu từ trước tới sau,

    Trong lúc gặp mặt khác đâu duyên trời”.

    Các từ ngữ “sớm hôm”, “cùng nhau”, “từ trước tới sau” trình bày một tình bạn vô cùng thân thiết, chung thuỷ. Mỗi một kỉ niệm là một mảnh tâm hồn của thi sĩ được nhắc lại với bao nhiêu giọt lệ. Nguyễn Khuyến như vẫn thấy Dương Khuê đang cùng mình hiển hiện. Phải là bạn ý hợp tâm đầu, phải là những văn nhân mặc khách mới có những kỉ niệm cầm ca, thi tửu đẹp và đáng nhớ tương tự.

    Nhớ những cuộc du ngoạn, thăm thú nơi “dặm khách” chan hoà với tự nhiên, thư thả giữa chốn lâm tuyền: “Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo”. Nhớ những lần cùng nhau đi hát đào nương nơi lầu cao, thưởng thức cung đàn, giọng hát:

    “Có lúc từng gác cheo leo,

    Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”.

    Cầm xoang tức là cung đàn, giọng hát, “Từng gác cheo leo” như còn gợi lại cảm giác ngây ngất trên lầu cao của đôi bạn tri kỉ sành điệu. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê rất sành nghệ thuật hát đào nương, đã sáng tác nhiều hài hát nói nổi tiếng.

    Người xưa có nói: “Tửu phùng tri kỉ thiên bôi thiểu – Thi hội tri kỉ bán cú đa”. Bạn tri kỉ trong hội thơ (chỉ nghe qua) nửa câu thơ đã là nhiều ko cần dài lời cũng đủ hiểu bạn. Nguyễn Khuyến nhớ lại những lần cùng bạn uống rượu làm thơ:

    “Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

    Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

    Có lúc hàn soạn câu văn,

    Biết bao đông bích điển phần trước sau”.

 Chén quỳnh tương là chén ngọc, một cách nói sang trọng. “Rượu ngon cùng nhắp” và hình ảnh “âm ắp bầu xuân” như còn giữ lại một tình bạn trong hương vị nồng nàn, hứng khởi. Nhắc tới chuyện bàn soạn văn học thì đầy ắp những sách vở, điển cố.

    Hai chữ “đông bích, điển phần” biểu lộ niểm tự hào kín đáo của những nhà nho học rộng tài cao.

    Nguyễn Khuyến đã sử dụng cách diễn tả trùng điệp hai nhóm từ ngữ: “Cũng có lúc” và “có lúc” đan chéo vào nhau, bốn lần xuất hiện trên tám dòng thơ, vừa để liệt kê gợi nhớ, vừa tạo nên âm hưởng vấn vít, thiết tha. Những kỉ niệm đó vô cùng thâm thúy, xinh tươi vể tình bạn, ko bao giờ có thể quên được.

    Có kỉ niệm vui, có kỉ niệm buồn. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng làm quan to dưới thời nhà Nguyễn. Nhưng rồi non sông ta bị xâm lược, dân tộc ta bị giặc Pháp thống trị, là kẻ sĩ, là nhà nho “cùng nhau thiến nạn”. Cách xử sự của mỗi người đểu có chỗ không giống nhau. Nguyễn Khuyến đã cáo bệnh, từ quan về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương. Ko tham miếng “đẩu thăng”, lương lậu của triểu đình. Còn Dương Khuê vẫn làm quan. Trong bài thơ chữ Hán “Gửi thăm quan Thượng thư họ Dương”, Nguyễn Khuyến tỏ ra rất thông cảm với bạn: “Tôi biết bác vì cha mẹ phải làm quan để lấy tấm lụa -Bác biết tôi nghèo phải làm quan để kiếm đấu gạo lương”. Hoàn cảnh và cách xử sự tuy có không giống nhau, kẻ làm quan, người từ quan, nhưng Tam nguyên Yên Đổ vẫn tỏ ra bao dung bạn, vẫn “mến yêu từ trước tới sau”, ko bao giờ thay lòng đổi dạ:

    “Bác già tôi cũng già rồi,

    Biết thôi, thôi thế, thì thôi, mới là”.

    Chữ “rồi” vần với ba chữ “thôi” liên tục như một tiếng thở dài, tự xoa dịu mình, như muốn quên đi thật nhanh những điều bất khoái trá. Ko nỡ, ko muốn nhắc tới nữa mới là bè bạn tâm giao!

    Hiện giờ hai người đã đôi đường âm – dương vĩnh biệt. Khóc bạn, Nguyễn Khuyến nhớ lại lần gặp bạn cuối cùng. Ăn năn vì đường xa, vì tuổi già sức yếu. Chữ “nhác” rất hay, nghĩa trong văn cảnh là ngại. Các chữ: “cầm tay” và “mừng rằng” trình bày một tấm lòng quý mến, thương yêu. Đoạn thơ làm tái tạo một quang cảnh cảm động của đôi bạn già sau nhiều năm xa cách mới gặp lại nhau:

    “Muốn đi lại, tuổi già thêm nhác,

    Trước ba năm gặp bác một lần,

    Cấm tay hỏi hết xa gần,

    Mừng rằng bác vẩn ý thức chưa can”.

    “Ý thức chưa can” ý nói sức khoẻ vẫn phổ biến, ý thức vẫn sáng suốt. Thế nhưng bạn đột ngột tạ thế. Hình ảnh “tay chân rụng rời” cực tả nỗi đớn đau, sững sờ ko kể xiết. Đoạn thơ sau đây trình bày rất đúng, rất thâm thúy tâm lí và tình cảm người già khí được tin bạn mất:

    “Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

    Tôi lại đau trước bác mấy ngày.

    Làm sao bác vội về ngay?

    Chợt nghe tôi bổng tay chân rụng rời!”.

    Giọng thơ kể lể, tự tình. Trong lời than thấm đầy lệ. Các tiếng “tôi” và “bác” xuất hiện nhiều lần trong đoạn thơ như hai vong linh đang nương tựa vào nhau; nỗi đau buồn như được nhân lên gấp bội.

    Đoạn thơ hồi ức này, những kỉ niệm được trình diễn theo trình tự thời kì, từ “thuở đăng khoa” tới ngày bạn tạ thế. Phép liệt kê, trùng điệp được vận dụng để gây ấn tượng vể một tình bạn lâu bền, thâm thúy, thuỷ chung và vô cùng thắm thiết. Người Việt chúng ta, nhất là các cụ già lúc khóc người thân quá cố thường kể lể gợi nhắc mọi kỉ niệm ngụ ý tiếc thương. Có lúc ta cảm thấy người sống đang hội thoại và tâm tư với người đã khuất. Sáu đoạn thơ đã kể lại đủ hết các thời đoạn của tình bạn, lời kể nào cũng thành tâm, đượm đà. Nguyễn Khuyến vừa kể lể, vừa nức nở.

   Tám câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là tự khóc mình, giọng thơ ngày một thêm não nùng, thê thiết. Ông trách bạn “vội đi xa” để mình lẻ loi, độc thân. Cuộc sống trở thành ngao ngán, vô nghĩa:

    “Người nào chẳng biết chán đời là phải,

    Sao vội vã đã mải lên tiên;

    Rượu ngon ko có bạn hiền,

    Ko sắm ko phải ko tiền ko sắm”.

   Sau chữ “chẳng” xuất hiện liên tục 5 chữ “ko” gợi tả cái trống vắng, cái độc thân của thi sĩ, của cảnh già. Kẻ đi xa và người ở lại cùng chung nỗi niềm tâm tư “chán đời là phải”. Thi sĩ kín đáo bộc lộ thái độ đối với thời cuộc trước sau ko thay đổi. Như đã từng thổ lộ:

    “Sách vở ích gì cho buổi đó

    Áo xiêm nghĩ tại: thẹn thân già”.

          (Ngày xuân dặn các con)

   Cho tới trước lúc tạ thế, ông vẫn ko quên trăng trối con cháu:

    “Đề vào mấy chữ trong bia,

    Rằng: Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.

            (Di chúc)

   Bạn mất đột ngột, nỗi tiếc thương, đau xót làm tê tái cả lòng. Sống trong độc thân ngày thêm chơ vơ sầu tủi. Cuộc đời mất hết ý nghĩa: ko muốn uống rượu, ko thiết ngâm thơ, gian nhà và tâm hồn trở thành trống vắng, trơ trọi. Còn đâu nữa bạn tri kỉ tri kỉ?

    “Câu thơ nghĩ đắn đo ko viết,

    Viết đưa người nào, người nào biết nhưng đưa

    Giường kia treo cũng hững hờ,

    Đàn kia gảy cũng ngơ ngẩn tiếng đàn”.

   Lời than khóc trở thành xót xa lúc thi sĩ nhắc lại điển tích Tử Kỳ – Bá Nha và Trần Phổn – Từ Trĩ. Chiếc giường dành riêng tiếp bạn nay đã trở thành “hững hờ”. Tiếng đàn cũng “ngơ ngẩn” mất hồn vì lẻ bạn. Một cách nói thậm xưng để cực tả nỗi đau tê tái lúc bạn thân tạ thế. Lúc còn sống thì đôi bạn cùng đi chơi “dặm khách”, cùng “lựa chiều cầm xoang”, “rượu ngon cùng nhắp”, cùng “bàn soạn câu văn” … Lúc bạn tạ thế chẳng còn người tri kỉ tri kỉ để cùng nhau uống rượu, làm thơ, nghe đàn, năng tới lui thăm nom, chia ngọt sẻ bùi cùng nhau. Nguyễn Khuyến đã có nhiều cách nói rất thâm thúy, cảm động diễn tả sự thương xót bạn và nỗi buồn độc thân của mình.

   Bốn câu cuối bài thơ như một tiếng nấc đớn đau. Tuổi già vốn ít lệ (hạt lệ như sương), nên chỉ biết khóc ở trong lòng. Thương bạn gắn liền với bao nỗi nhớ. Khóc bạn chuyển thành nỗi niềm như cam chịu số phận bi thương. Chỉ cầu mong cho vong linh bạn thanh thản “lên tiên”:

    “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,

    Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương,

    Tuổi già hạt lệ như sương,

    Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”.

   Trải qua bao mưa nắng, bao thăng trầm thiến nạn, Tam nguyên Yên Đổ còn đâu nhiêu nước mắt để khóc bạn, chí còn biết “lấy nhớ làm thương”. Tuy nhiên cả bài thơ, nhất là bốn cấu kết đã “chứa chan” nước mắt đau xót. Hai câu thơ: “Bác chẳng ở dẫu vẫn chẳng ở – Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương” với cách diễn tả trùng điệp và tăng cấp đã tạo nên giọng thơ buồn thê thiết, Nguyễn Khuyến để lại nhiều tiếng khóc: khóc cho non sông và dân tộc, khóc vợ, khóc con, khóc bạn,… Tiếng khóc nào cũng xúc động, tê tái, nặng tình, nặng nghĩa. Riêng bài “Khó Dương Khuê” lại được viết bằng thể thơ song thất lục bát, lời khóc bạn càng trở thành thiết tha, não nùng, lúc thì nức nở, thảng thốt, lúc thì kể lể thở than,lúc thì phân trần, lúc thì trách móc, lời thơ thủ thỉ như nói với người còn sống, rất cảm động Giọng thơ liền mạch, lời thơ tinh tế, biểu cảm đã trình bày nghệ thuật vừa bình di, vừa điêu luyện.

   “Khóc Dương Khuê” trình bày một tình bạn đẹp và cảm dộng của nhà nho thuở trước. Sau một thế kỉ, chúng ta vẫn thấy ngậm ngùi xúc động lúc đọc bài thơ này. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là khóc cho một thế hệ nhà nho và cũng là tự khóc cho minh: “Người nào chẳng biết chán đời là phải”…

Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến do bangtuanhoan.edu.vn sưu tầm được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

Đăng bởi: bangtuanhoan.edu.vn

Phân mục: Lớp 11, Ngữ Văn 11

[rule_{ruleNumber}]

#Phân #tích #bài #thơ #Khóc #Dương #Khuê #của #Nguyễn #Khuyến #Tuyển #chọn #những #bài #văn #hay #Phân #tích #bài #thơ #Khóc #Dương #Khuê #của #Nguyễn #Khuyến #Với #những #bài

[rule_3_plain]

#Phân #tích #bài #thơ #Khóc #Dương #Khuê #của #Nguyễn #Khuyến #Tuyển #chọn #những #bài #văn #hay #Phân #tích #bài #thơ #Khóc #Dương #Khuê #của #Nguyễn #Khuyến #Với #những #bài

Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài văn mẫu hay nhất dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 

Xem nhanh nội dung1 Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 12 Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 2
Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 1
     Nguyễn Khuyến và Dương Khuê sinh tiền là hai người bạn hết sức thân thiết và thấu hiểu lẫn nhau, cùng làm quan dưới thời Nguyễn trong buổi non sông có nhiều chuyển đổi, khiến các nhà trí thức đương thời có phần bất lực và chán nản, càng khiến hai người có chung niềm tâm tư, họ lại càng trở thành thân thiết hơn cả. Sự gắn bó, tri kỷ đó quả thực là hiếm có của đời người, chính vì lẽ đó nên lúc nghe hung tin Dương Khuê mất vì bệnh nặng, Nguyễn Khuyến đã hết sức sững sờ và đau buồn bởi từ nay chẳng còn lấy một người tri kỉ, tri kỷ cùng ông san sẻ những nỗi niềm tây trong cuộc đời. Nguyễn Khuyến đã viết bài thơ Khóc Dương Khuê để tỏ nỗi lòng tiếc thương, xót xa của mình dành cho người bạn quá cố.
     Dương Khuê (1839-1902), tự Giới Nhu, hiệu Vân Trì, là người văn hay chữ tốt, đỗ Cử Nhân cùng khóa với Nguyễn Khuyến, đỗ Tiến sĩ năm 1868 rồi ra làm quan, tuy nhiên cuộc đời làm quan của ông có nhiều thăng trầm biến động. Chán nản với cuộc đời quan chức ko mấy trót lọt ông cáo quan lúc 58 tuổi, lui về vui vầy với rượu, thơ, đàn xướng. Các tác phẩm của ông gồm có cả thơ chữ Hán, nhưng ca trù lại mang lại cho ông sự nổi tiếng hơn cả ví như có bài Gặp lại cô đầu cũ.
     Mở đầu bài thơ là sự hoang mang, sững sờ của Nguyễn Khuyến về sự ra đi đột ngột của Dương Khuê bạn mình.
“Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.”
     Nguyễn Khuyến gọi bạn mình bằng hai từ “Bác Dương” rất đỗi thân thiện, thân thiết, lại cũng trình bày những tình cảm trân trọng, quý mến vô cùng của những người đồng trang lứa, cách gọi đó tựa như lúc Dương Khuê vẫn còn sống nhưng hai người vẫn thường xưng hô với nhau. Cụm từ “Thôi đã thôi rồi”, từ “thôi” đầu trình bày nỗi nuối tiếc xót xa lúc vụt mất một thứ quan trọng nhất cuộc đời của Nguyễn Khuyến, từ “thôi” thứ hai là ngụ ý về sự ra đi của Dương Khuê. Nỗi đau mất bạn đó là nỗi đau “ngậm ngùi” âm ỉ cháy trong lòng, người ra đi khiến người ở lại phải day dứt, buồn thương vô cùng, nỗi đau đó ko chỉ khu trú trong tâm hồn tác giả nhưng tựa như nước chảy mây bay, lan tỏa khắp cùng trời cuối đất, rộng lớn vô cùng. Nhịp thơ, giọng điệu ở hai câu đầu nhẹ nhõm, thầm lặng như dàn trải, mang tới cảm giác trầm buồn, càng diễn tả thâm thúy nỗi đau mất bạn của Nguyễn Khuyến.
     Trong sự mất mát to lớn đó, Nguyễn Khuyến dần hồi ức về khoảng thời kì hai người còn bầu bạn, vui vầy.
“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Mến yêu từ trước tới sau,
Trong lúc gặp mặt khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có lúc tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có lúc bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Buổi dương cửu cùng nhau thiến nạn,
Phận đấu thăng chẳng dám tham trời”
     Nhớ làm sao ngày mới quen biết cùng nhau đỗ khoa cử, lại cùng nhau “sớm hôm” bàn luận chuyện đời, mối quan hệ, tình bạn tri kỷ của Dương Khuê và Nguyễn Khuyến là tình cảm kính trọng, quý mến, thấu hiểu lẫn nhau, “mến yêu từ trước tới sau”. Việc được gặp mặt và kết thành tri kỷ với Dương Khuê, Nguyễn Khuyến rất đỗi coi trọng, ví như “duyên trời” định sẵn, là mối cơ duyên trăm năm có một, đâu phải dễ dàng. Trước nỗi đau xót, nỗi tiếc thương vô hạn, Nguyễn Khuyến lại ngược bước về những năm tháng huy hoàng tuổi xanh của ông với người bạn quá cố. Còn đâu những năm tháng trẻ khỏe sung sức, hết “chơi nơi dặm khách”, lại vượt núi leo đồi nghe tiếng suối róc rách, rồi những buổi thư thả trên “tầng gác cheo leo” cùng nhau nghe những cô đầu ngân nga câu hát đào nương êm ái. Lại nhớ những ngày thâu đêm suốt sáng, cùng tri kỷ sẻ chia chén rượu quý thơm nồng, cùng nhau làm thơ, lại cùng nhau ngâm thơ, rồi bàn luận qua lại trước sau chau chuốt. Rồi những ngày cùng nhau vùi trong phòng sách nghiên cứu Tam phần ngũ điển để thấu hiểu cái đạo lý của người xưa. Rồi cả quãng đời cùng nhau đỗ khoa cử, cùng nhau đứng ra phụng sự triều đình, cái mũ ô sa trên đầu dẫu có nặng trăm bề, dẫu có rối ren và nhiều cớ sự bất mãn, đôi bạn tri kỷ cũng chỉ biết san sẻ, thấu hiểu, cùng sát cánh vượt qua chứ nào dám than vãn trước sau. Biết bao kỷ niệm quá đỗi xinh tươi, như mới chỉ ngày hôm qua đây thôi, nhưng nay người đã lại vội về chốn tây thiên cực lạc, Nguyễn Khuyến nghĩ nhưng thêm bổi hổi, thêm xót xa muôn phần.
     Thời trẻ trai, có sức, có lực lại có cả ý chí ngoan cường là thế, buổi về già mọi thứ đã ko còn được như trước, nhưng tình cảm tri kỷ của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vẫn ko hề chuyển dời, thậm chí còn vì xa cách nhưng ngày càng thêm thâm thúy, gắn bó hơn cả.
“Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn ý thức chưa can”
     Lúc tuổi đã cao, sức đã yếu thì những thú vui tuổi xanh dần trở thành những thứ xa xỉ, thậm chí vì xa cách nhưng cả hai người mãi mới có bận gặp nhau một lần, đấy cũng là 3 năm về trước. Tuy nhiên dẫu có xa, dẫu có lâu ko gặp thì tình bạn gắn bó keo sơn vẫn mãi ngự trị mãi trong ngực trái của cả hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, chưa một lần nguội lạnh. Họ vẫn thân thiết như xưa “Cầm tay hỏi hết xa gần”, dường như bao chuyện lâu nay ko được có người san sẻ đều tuôn ra hết trong lần gặp cuối đó, được thấy bạn mình vẫn khỏe mạnh, “ý thức chưa can” là niềm hạnh phúc vô bờ bến của những người tri kỷ. Có thể thấy rằng dẫu về già, ko còn gặp nhau được mấy lần nhưng Nguyễn Khuyến vẫn giữ gìn vẹn nguyên cái tình cảm tri kỉ đó, vẫn luôn hằng tưởng nhớ về người bạn tuổi xanh thường xuyên san sẻ tâm tình, cùng chung khổ nạn.
     Hồi ức càng nhiều, ký ức càng tươi đẹp bao nhiêu thì quay trở về với hiện thực tác giả lại càng phải đương đầu với hiện thực phũ phàng và đau xót bấy nhiêu, những mộng tưởng của ngày xưa đã vĩnh viễn đi vào quá khứ. Nguyễn Khuyến buộc phải đương đầu với hiện thức rằng Dương Khuê đã ra đi mãi mãi, ông đã mất đi người bạn quý giá nhất cả cuộc đời, giờ chỉ còn lại tấm thân già độc thân giữa thời thế tao loạn.
“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng tay chân rụng rời”
     Ông ko khỏi ngậm ngùi, đau xót một nỗi tiếc thương rằng vì sao Dương Khuê vốn nhỏ tuổi hơn ông, lại bệnh tật cũng sau ông, thế nhưng chẳng hiểu sao “bác vội về ngay”, tin đó làm cho Nguyễn Khuyến sững sờ “tay chân rụng rời”, vì ko thể tin nổi trước hung tin như sét đánh ngang tai đó. Giờ đây bạn hiền đã về với miền cực lạc, để lại Nguyễn Khuyến một thân già với nỗi đớn đau, hụt hẫng và hoang mang vô cùng.
“Người nào chẳng biết chán đời là phải,
Vội vã sao đã mải lên tiên;
Rượu ngon ko có bạn hiền,
Ko sắm ko phải ko tiền ko sắm.
Câu thơ nghĩ đắn đo ko viết,
Viết đưa người nào, người nào biết nhưng đưa;
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngơ ngẩn tiếng đàn.”
     Bạn hiền đã mất, còn lại mình Nguyễn Khuyến với nỗi độc thân, trống vắng thì thiết tha gì những thú vui từng một thời say đắm, rượu ngon cũng trở thành vô vị, thú vui làm thơ cũng dần chán nản, bởi còn đâu người vừa ý để vui vầy, sẻ chia nữa. Tình cảm thắm thiết tri kỉ, tri kỷ đó sánh ngang với điển cố của người xưa như tình bạn giữa Trần Phồn – Từ Trĩ, như Tử Kỳ – Bá Nha, sâu nặng, ân nghĩa vô cùng.
     Trở lại với thực tại, trước vong linh người bạn hiền quá cố, Nguyễn Khuyến cuối cùng cũng đã thoát khỏi cái hồi ức xa xăm, trở về với hiện thực đớn đau, xót xa. Nhưng dẫu Dương Khuê có chết đi, thì tình cảm giữa hai người vẫn trường tồn mãi mãi, là thứ trân quý nhất trong cuộc đời nhưng Nguyễn Khuyến hằng trân trọng.
“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”
     Nỗi đớn đau đó đã ko thể chảy thành hàng lệ dài, nhưng Nguyễn Khuyến giấu nó vào trong góc sâu nhất của trái tim, để tưởng nhớ mãi về một người bạn hiền tri kỉ tri kỷ. Những câu thơ cuối là lời buông thật nhẹ nhõm, buồn tủi, là sự chấp nhận của tâm hồn thi sĩ trước sự ra đi của bạn mình. Thôi đành hứa kiếp sau lại được làm tri kỷ, kiếp này duyên trời coi như đã hết.
     Khóc Dương Khuê là bài thơ cảm động và thâm thúy của Nguyễn Khuyến viết để tưởng nhớ về người bạn quá cố, qua đó thấy được những tình cảm đáng quý, thiết tha sâu nặng giữa những người tri kỷ, đồng thời ngợi ca tình bạn thiêng liêng, trăm năm có một của thi sĩ. Bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ êm đềm, chậm rãi, ngôn từ giản dị, tác gỉa tinh tế sử dụng các điển tích điển cố một cách khôn khéo đã làm tăng sức thu hút của bài thơ, diễn tả thành công nỗi buồn của thi nhân đầy xót xa, suy tư và trầm lắng.
Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 2
    Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) để lại khoảng 800 bài thơ chữ Nôm và chữ Hán trong đó có ngót một trăm bài thơ viết về tình bạn. Có bài như “Bạn tới chơi nhà” thì hầu như người nào cũng biết. Viết về Dương Khuê (1839 — 1902) bạn chí thân của mình, Nguyễn Khuyến đã có bốn bài thơ chữ Hán. Riêng bài thơ thứ tư “Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư” (Viếng bạn đồng khoa là Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư) được tác giả dịch ra chữ Nôm thành bài “Khóc Dương Khuê”.
   Đây là bài thơ khóc bạn rất tha thiết cảm động của Nguyễn Khuyến cũng là bài thơ khóc bạn rất nổi tiếng trong nền thơ ca dân tộc. Dương Khuê là bạn đồng khoa với Nguyễn Khuyến tại khoa thi Hương năm 1864. Dương Khuê đỗ tiến sĩ, làm quan to, để lại nhiều bài thơ hát nói tuyệt bút. Từ bạn đồng khoa đã trở nên bạn tri kỉ tri kỉ nên Nguyễn Khuyến mới có thơ khóc bạn cảm động và tha thiêt tương tự. Có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ réo rắt thấm đầy lệ, gồm có 38 câu thơ.
    Mở đầu bài thơ là một tiếng than, tiếng nấc đớn đau:
    “Bác Dương thôi đã thôi rồi,
    Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”.
 Một sự thảng thốt xót thương cất lên, tưởng như bất thần bị đánh rơi mất một cái gì vô cùng quý báu. Nhóm từ “thôi đã thôi rồi” thay cho khái niệm “đã mất”, “đã chết”, “đã tạ thế” V.V.. một lối nói bình dị, làm cắt bớt đi nỗi đớn đau gớm ghê đối với tuổi già. Theo cách tính tuổi của các cụ ngày trước thì Dương Khuê mất lúc 63 tuổi, lúc đó Nguyễn Khuyến đã 68 tuổi rồi. Đúng là tiếng khóc bạn của những bậc cao niên. Hai chữ “nước mây” chỉ hai sự vật cách xa. Nước chảy, mây trôi, xa nhau vời vợi, nghìn trùng cách trở, có mấy lúc gặp nhau. Song, lòng nước chảy, dù đi đâu về đâu vẫn ôm ấp bóng mây trôi. Hình ảnh “nước mây” được liên kết với các từ láy “man mác”, “ngậm ngùi” diễn tả một trời thương xót, một ko gian cách trở rộng lớn, âm dương đôi đường, đau buồn, trĩu nặng.
    Chữ “bác” trong thơ Nguyễn Khuyến mang tính biểu cảm thâm thúy. Thi sĩ xoành xoạch gọi bạn bằng bác, trình bày một tấm lòng kính trọng và thân tình. Chữ “kính” và chữ “lễ” in đậm trong phong cách xử sự của Tam nguyên Yên Đổ: “Bác Dương thôi đã thôi rồi… Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác… Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở”…
    Phần thứ hai gồm 24 câu thơ, tác giả nhắc lại, nhớ lại những kỉ niệm thâm thúy với người đã quá cố. Với nhà nho thì bạn đồng khoa là bạn đẹp nhất, tự hào nhất. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng đỗ đạt, cùng làm quan, tình bạn đó là “duyên trời” tác thành nên:
    “Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
    Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.
    Mến yêu từ trước tới sau,
    Trong lúc gặp mặt khác đâu duyên trời”.
    Các từ ngữ “sớm hôm”, “cùng nhau”, “từ trước tới sau” trình bày một tình bạn vô cùng thân thiết, chung thuỷ. Mỗi một kỉ niệm là một mảnh tâm hồn của thi sĩ được nhắc lại với bao nhiêu giọt lệ. Nguyễn Khuyến như vẫn thấy Dương Khuê đang cùng mình hiển hiện. Phải là bạn ý hợp tâm đầu, phải là những văn nhân mặc khách mới có những kỉ niệm cầm ca, thi tửu đẹp và đáng nhớ tương tự.
    Nhớ những cuộc du ngoạn, thăm thú nơi “dặm khách” chan hoà với tự nhiên, thư thả giữa chốn lâm tuyền: “Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo”. Nhớ những lần cùng nhau đi hát đào nương nơi lầu cao, thưởng thức cung đàn, giọng hát:
    “Có lúc từng gác cheo leo,
    Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”.
    Cầm xoang tức là cung đàn, giọng hát, “Từng gác cheo leo” như còn gợi lại cảm giác ngây ngất trên lầu cao của đôi bạn tri kỉ sành điệu. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê rất sành nghệ thuật hát đào nương, đã sáng tác nhiều hài hát nói nổi tiếng.
    Người xưa có nói: “Tửu phùng tri kỉ thiên bôi thiểu – Thi hội tri kỉ bán cú đa”. Bạn tri kỉ trong hội thơ (chỉ nghe qua) nửa câu thơ đã là nhiều ko cần dài lời cũng đủ hiểu bạn. Nguyễn Khuyến nhớ lại những lần cùng bạn uống rượu làm thơ:
    “Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
    Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
    Có lúc hàn soạn câu văn,
    Biết bao đông bích điển phần trước sau”.
 Chén quỳnh tương là chén ngọc, một cách nói sang trọng. “Rượu ngon cùng nhắp” và hình ảnh “âm ắp bầu xuân” như còn giữ lại một tình bạn trong hương vị nồng nàn, hứng khởi. Nhắc tới chuyện bàn soạn văn học thì đầy ắp những sách vở, điển cố.
    Hai chữ “đông bích, điển phần” biểu lộ niểm tự hào kín đáo của những nhà nho học rộng tài cao.
    Nguyễn Khuyến đã sử dụng cách diễn tả trùng điệp hai nhóm từ ngữ: “Cũng có lúc” và “có lúc” đan chéo vào nhau, bốn lần xuất hiện trên tám dòng thơ, vừa để liệt kê gợi nhớ, vừa tạo nên âm hưởng vấn vít, thiết tha. Những kỉ niệm đó vô cùng thâm thúy, xinh tươi vể tình bạn, ko bao giờ có thể quên được.
    Có kỉ niệm vui, có kỉ niệm buồn. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng làm quan to dưới thời nhà Nguyễn. Nhưng rồi non sông ta bị xâm lược, dân tộc ta bị giặc Pháp thống trị, là kẻ sĩ, là nhà nho “cùng nhau thiến nạn”. Cách xử sự của mỗi người đểu có chỗ không giống nhau. Nguyễn Khuyến đã cáo bệnh, từ quan về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương. Ko tham miếng “đẩu thăng”, lương lậu của triểu đình. Còn Dương Khuê vẫn làm quan. Trong bài thơ chữ Hán “Gửi thăm quan Thượng thư họ Dương”, Nguyễn Khuyến tỏ ra rất thông cảm với bạn: “Tôi biết bác vì cha mẹ phải làm quan để lấy tấm lụa -Bác biết tôi nghèo phải làm quan để kiếm đấu gạo lương”. Hoàn cảnh và cách xử sự tuy có không giống nhau, kẻ làm quan, người từ quan, nhưng Tam nguyên Yên Đổ vẫn tỏ ra bao dung bạn, vẫn “mến yêu từ trước tới sau”, ko bao giờ thay lòng đổi dạ:
    “Bác già tôi cũng già rồi,
    Biết thôi, thôi thế, thì thôi, mới là”.
    Chữ “rồi” vần với ba chữ “thôi” liên tục như một tiếng thở dài, tự xoa dịu mình, như muốn quên đi thật nhanh những điều bất khoái trá. Ko nỡ, ko muốn nhắc tới nữa mới là bè bạn tâm giao!
    Hiện giờ hai người đã đôi đường âm – dương vĩnh biệt. Khóc bạn, Nguyễn Khuyến nhớ lại lần gặp bạn cuối cùng. Ăn năn vì đường xa, vì tuổi già sức yếu. Chữ “nhác” rất hay, nghĩa trong văn cảnh là ngại. Các chữ: “cầm tay” và “mừng rằng” trình bày một tấm lòng quý mến, thương yêu. Đoạn thơ làm tái tạo một quang cảnh cảm động của đôi bạn già sau nhiều năm xa cách mới gặp lại nhau:
    “Muốn đi lại, tuổi già thêm nhác,
    Trước ba năm gặp bác một lần,
    Cấm tay hỏi hết xa gần,
    Mừng rằng bác vẩn ý thức chưa can”.
    “Ý thức chưa can” ý nói sức khoẻ vẫn phổ biến, ý thức vẫn sáng suốt. Thế nhưng bạn đột ngột tạ thế. Hình ảnh “tay chân rụng rời” cực tả nỗi đớn đau, sững sờ ko kể xiết. Đoạn thơ sau đây trình bày rất đúng, rất thâm thúy tâm lí và tình cảm người già khí được tin bạn mất:
    “Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
    Tôi lại đau trước bác mấy ngày.
    Làm sao bác vội về ngay?
    Chợt nghe tôi bổng tay chân rụng rời!”.
    Giọng thơ kể lể, tự tình. Trong lời than thấm đầy lệ. Các tiếng “tôi” và “bác” xuất hiện nhiều lần trong đoạn thơ như hai vong linh đang nương tựa vào nhau; nỗi đau buồn như được nhân lên gấp bội.
    Đoạn thơ hồi ức này, những kỉ niệm được trình diễn theo trình tự thời kì, từ “thuở đăng khoa” tới ngày bạn tạ thế. Phép liệt kê, trùng điệp được vận dụng để gây ấn tượng vể một tình bạn lâu bền, thâm thúy, thuỷ chung và vô cùng thắm thiết. Người Việt chúng ta, nhất là các cụ già lúc khóc người thân quá cố thường kể lể gợi nhắc mọi kỉ niệm ngụ ý tiếc thương. Có lúc ta cảm thấy người sống đang hội thoại và tâm tư với người đã khuất. Sáu đoạn thơ đã kể lại đủ hết các thời đoạn của tình bạn, lời kể nào cũng thành tâm, đượm đà. Nguyễn Khuyến vừa kể lể, vừa nức nở.
   Tám câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là tự khóc mình, giọng thơ ngày một thêm não nùng, thê thiết. Ông trách bạn “vội đi xa” để mình lẻ loi, độc thân. Cuộc sống trở thành ngao ngán, vô nghĩa:
    “Người nào chẳng biết chán đời là phải,
    Sao vội vã đã mải lên tiên;
    Rượu ngon ko có bạn hiền,
    Ko sắm ko phải ko tiền ko sắm”.
   Sau chữ “chẳng” xuất hiện liên tục 5 chữ “ko” gợi tả cái trống vắng, cái độc thân của thi sĩ, của cảnh già. Kẻ đi xa và người ở lại cùng chung nỗi niềm tâm tư “chán đời là phải”. Thi sĩ kín đáo bộc lộ thái độ đối với thời cuộc trước sau ko thay đổi. Như đã từng thổ lộ:
    “Sách vở ích gì cho buổi đó
    Áo xiêm nghĩ tại: thẹn thân già”.
          (Ngày xuân dặn các con)
   Cho tới trước lúc tạ thế, ông vẫn ko quên trăng trối con cháu:
    “Đề vào mấy chữ trong bia,
    Rằng: Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.
            (Di chúc)
   Bạn mất đột ngột, nỗi tiếc thương, đau xót làm tê tái cả lòng. Sống trong độc thân ngày thêm chơ vơ sầu tủi. Cuộc đời mất hết ý nghĩa: ko muốn uống rượu, ko thiết ngâm thơ, gian nhà và tâm hồn trở thành trống vắng, trơ trọi. Còn đâu nữa bạn tri kỉ tri kỉ?
    “Câu thơ nghĩ đắn đo ko viết,
    Viết đưa người nào, người nào biết nhưng đưa
    Giường kia treo cũng hững hờ,
    Đàn kia gảy cũng ngơ ngẩn tiếng đàn”.
   Lời than khóc trở thành xót xa lúc thi sĩ nhắc lại điển tích Tử Kỳ – Bá Nha và Trần Phổn – Từ Trĩ. Chiếc giường dành riêng tiếp bạn nay đã trở thành “hững hờ”. Tiếng đàn cũng “ngơ ngẩn” mất hồn vì lẻ bạn. Một cách nói thậm xưng để cực tả nỗi đau tê tái lúc bạn thân tạ thế. Lúc còn sống thì đôi bạn cùng đi chơi “dặm khách”, cùng “lựa chiều cầm xoang”, “rượu ngon cùng nhắp”, cùng “bàn soạn câu văn” … Lúc bạn tạ thế chẳng còn người tri kỉ tri kỉ để cùng nhau uống rượu, làm thơ, nghe đàn, năng tới lui thăm nom, chia ngọt sẻ bùi cùng nhau. Nguyễn Khuyến đã có nhiều cách nói rất thâm thúy, cảm động diễn tả sự thương xót bạn và nỗi buồn độc thân của mình.
   Bốn câu cuối bài thơ như một tiếng nấc đớn đau. Tuổi già vốn ít lệ (hạt lệ như sương), nên chỉ biết khóc ở trong lòng. Thương bạn gắn liền với bao nỗi nhớ. Khóc bạn chuyển thành nỗi niềm như cam chịu số phận bi thương. Chỉ cầu mong cho vong linh bạn thanh thản “lên tiên”:
    “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
    Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương,
    Tuổi già hạt lệ như sương,
    Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”.
   Trải qua bao mưa nắng, bao thăng trầm thiến nạn, Tam nguyên Yên Đổ còn đâu nhiêu nước mắt để khóc bạn, chí còn biết “lấy nhớ làm thương”. Tuy nhiên cả bài thơ, nhất là bốn cấu kết đã “chứa chan” nước mắt đau xót. Hai câu thơ: “Bác chẳng ở dẫu vẫn chẳng ở – Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương” với cách diễn tả trùng điệp và tăng cấp đã tạo nên giọng thơ buồn thê thiết, Nguyễn Khuyến để lại nhiều tiếng khóc: khóc cho non sông và dân tộc, khóc vợ, khóc con, khóc bạn,… Tiếng khóc nào cũng xúc động, tê tái, nặng tình, nặng nghĩa. Riêng bài “Khó Dương Khuê” lại được viết bằng thể thơ song thất lục bát, lời khóc bạn càng trở thành thiết tha, não nùng, lúc thì nức nở, thảng thốt, lúc thì kể lể thở than,lúc thì phân trần, lúc thì trách móc, lời thơ thủ thỉ như nói với người còn sống, rất cảm động Giọng thơ liền mạch, lời thơ tinh tế, biểu cảm đã trình bày nghệ thuật vừa bình di, vừa điêu luyện.
   “Khóc Dương Khuê” trình bày một tình bạn đẹp và cảm dộng của nhà nho thuở trước. Sau một thế kỉ, chúng ta vẫn thấy ngậm ngùi xúc động lúc đọc bài thơ này. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là khóc cho một thế hệ nhà nho và cũng là tự khóc cho minh: “Người nào chẳng biết chán đời là phải”…
Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến do bangtuanhoan.edu.vn sưu tầm được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!
Đăng bởi: bangtuanhoan.edu.vn
Phân mục: Lớp 11, Ngữ Văn 11

#Phân #tích #bài #thơ #Khóc #Dương #Khuê #của #Nguyễn #Khuyến #Tuyển #chọn #những #bài #văn #hay #Phân #tích #bài #thơ #Khóc #Dương #Khuê #của #Nguyễn #Khuyến #Với #những #bài

[rule_2_plain]

#Phân #tích #bài #thơ #Khóc #Dương #Khuê #của #Nguyễn #Khuyến #Tuyển #chọn #những #bài #văn #hay #Phân #tích #bài #thơ #Khóc #Dương #Khuê #của #Nguyễn #Khuyến #Với #những #bài

[rule_2_plain]

#Phân #tích #bài #thơ #Khóc #Dương #Khuê #của #Nguyễn #Khuyến #Tuyển #chọn #những #bài #văn #hay #Phân #tích #bài #thơ #Khóc #Dương #Khuê #của #Nguyễn #Khuyến #Với #những #bài

[rule_3_plain]

#Phân #tích #bài #thơ #Khóc #Dương #Khuê #của #Nguyễn #Khuyến #Tuyển #chọn #những #bài #văn #hay #Phân #tích #bài #thơ #Khóc #Dương #Khuê #của #Nguyễn #Khuyến #Với #những #bài

Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài văn mẫu hay nhất dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 

Xem nhanh nội dung1 Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 12 Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 2
Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 1
     Nguyễn Khuyến và Dương Khuê sinh tiền là hai người bạn hết sức thân thiết và thấu hiểu lẫn nhau, cùng làm quan dưới thời Nguyễn trong buổi non sông có nhiều chuyển đổi, khiến các nhà trí thức đương thời có phần bất lực và chán nản, càng khiến hai người có chung niềm tâm tư, họ lại càng trở thành thân thiết hơn cả. Sự gắn bó, tri kỷ đó quả thực là hiếm có của đời người, chính vì lẽ đó nên lúc nghe hung tin Dương Khuê mất vì bệnh nặng, Nguyễn Khuyến đã hết sức sững sờ và đau buồn bởi từ nay chẳng còn lấy một người tri kỉ, tri kỷ cùng ông san sẻ những nỗi niềm tây trong cuộc đời. Nguyễn Khuyến đã viết bài thơ Khóc Dương Khuê để tỏ nỗi lòng tiếc thương, xót xa của mình dành cho người bạn quá cố.
     Dương Khuê (1839-1902), tự Giới Nhu, hiệu Vân Trì, là người văn hay chữ tốt, đỗ Cử Nhân cùng khóa với Nguyễn Khuyến, đỗ Tiến sĩ năm 1868 rồi ra làm quan, tuy nhiên cuộc đời làm quan của ông có nhiều thăng trầm biến động. Chán nản với cuộc đời quan chức ko mấy trót lọt ông cáo quan lúc 58 tuổi, lui về vui vầy với rượu, thơ, đàn xướng. Các tác phẩm của ông gồm có cả thơ chữ Hán, nhưng ca trù lại mang lại cho ông sự nổi tiếng hơn cả ví như có bài Gặp lại cô đầu cũ.
     Mở đầu bài thơ là sự hoang mang, sững sờ của Nguyễn Khuyến về sự ra đi đột ngột của Dương Khuê bạn mình.
“Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.”
     Nguyễn Khuyến gọi bạn mình bằng hai từ “Bác Dương” rất đỗi thân thiện, thân thiết, lại cũng trình bày những tình cảm trân trọng, quý mến vô cùng của những người đồng trang lứa, cách gọi đó tựa như lúc Dương Khuê vẫn còn sống nhưng hai người vẫn thường xưng hô với nhau. Cụm từ “Thôi đã thôi rồi”, từ “thôi” đầu trình bày nỗi nuối tiếc xót xa lúc vụt mất một thứ quan trọng nhất cuộc đời của Nguyễn Khuyến, từ “thôi” thứ hai là ngụ ý về sự ra đi của Dương Khuê. Nỗi đau mất bạn đó là nỗi đau “ngậm ngùi” âm ỉ cháy trong lòng, người ra đi khiến người ở lại phải day dứt, buồn thương vô cùng, nỗi đau đó ko chỉ khu trú trong tâm hồn tác giả nhưng tựa như nước chảy mây bay, lan tỏa khắp cùng trời cuối đất, rộng lớn vô cùng. Nhịp thơ, giọng điệu ở hai câu đầu nhẹ nhõm, thầm lặng như dàn trải, mang tới cảm giác trầm buồn, càng diễn tả thâm thúy nỗi đau mất bạn của Nguyễn Khuyến.
     Trong sự mất mát to lớn đó, Nguyễn Khuyến dần hồi ức về khoảng thời kì hai người còn bầu bạn, vui vầy.
“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Mến yêu từ trước tới sau,
Trong lúc gặp mặt khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có lúc tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có lúc bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Buổi dương cửu cùng nhau thiến nạn,
Phận đấu thăng chẳng dám tham trời”
     Nhớ làm sao ngày mới quen biết cùng nhau đỗ khoa cử, lại cùng nhau “sớm hôm” bàn luận chuyện đời, mối quan hệ, tình bạn tri kỷ của Dương Khuê và Nguyễn Khuyến là tình cảm kính trọng, quý mến, thấu hiểu lẫn nhau, “mến yêu từ trước tới sau”. Việc được gặp mặt và kết thành tri kỷ với Dương Khuê, Nguyễn Khuyến rất đỗi coi trọng, ví như “duyên trời” định sẵn, là mối cơ duyên trăm năm có một, đâu phải dễ dàng. Trước nỗi đau xót, nỗi tiếc thương vô hạn, Nguyễn Khuyến lại ngược bước về những năm tháng huy hoàng tuổi xanh của ông với người bạn quá cố. Còn đâu những năm tháng trẻ khỏe sung sức, hết “chơi nơi dặm khách”, lại vượt núi leo đồi nghe tiếng suối róc rách, rồi những buổi thư thả trên “tầng gác cheo leo” cùng nhau nghe những cô đầu ngân nga câu hát đào nương êm ái. Lại nhớ những ngày thâu đêm suốt sáng, cùng tri kỷ sẻ chia chén rượu quý thơm nồng, cùng nhau làm thơ, lại cùng nhau ngâm thơ, rồi bàn luận qua lại trước sau chau chuốt. Rồi những ngày cùng nhau vùi trong phòng sách nghiên cứu Tam phần ngũ điển để thấu hiểu cái đạo lý của người xưa. Rồi cả quãng đời cùng nhau đỗ khoa cử, cùng nhau đứng ra phụng sự triều đình, cái mũ ô sa trên đầu dẫu có nặng trăm bề, dẫu có rối ren và nhiều cớ sự bất mãn, đôi bạn tri kỷ cũng chỉ biết san sẻ, thấu hiểu, cùng sát cánh vượt qua chứ nào dám than vãn trước sau. Biết bao kỷ niệm quá đỗi xinh tươi, như mới chỉ ngày hôm qua đây thôi, nhưng nay người đã lại vội về chốn tây thiên cực lạc, Nguyễn Khuyến nghĩ nhưng thêm bổi hổi, thêm xót xa muôn phần.
     Thời trẻ trai, có sức, có lực lại có cả ý chí ngoan cường là thế, buổi về già mọi thứ đã ko còn được như trước, nhưng tình cảm tri kỷ của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vẫn ko hề chuyển dời, thậm chí còn vì xa cách nhưng ngày càng thêm thâm thúy, gắn bó hơn cả.
“Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn ý thức chưa can”
     Lúc tuổi đã cao, sức đã yếu thì những thú vui tuổi xanh dần trở thành những thứ xa xỉ, thậm chí vì xa cách nhưng cả hai người mãi mới có bận gặp nhau một lần, đấy cũng là 3 năm về trước. Tuy nhiên dẫu có xa, dẫu có lâu ko gặp thì tình bạn gắn bó keo sơn vẫn mãi ngự trị mãi trong ngực trái của cả hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, chưa một lần nguội lạnh. Họ vẫn thân thiết như xưa “Cầm tay hỏi hết xa gần”, dường như bao chuyện lâu nay ko được có người san sẻ đều tuôn ra hết trong lần gặp cuối đó, được thấy bạn mình vẫn khỏe mạnh, “ý thức chưa can” là niềm hạnh phúc vô bờ bến của những người tri kỷ. Có thể thấy rằng dẫu về già, ko còn gặp nhau được mấy lần nhưng Nguyễn Khuyến vẫn giữ gìn vẹn nguyên cái tình cảm tri kỉ đó, vẫn luôn hằng tưởng nhớ về người bạn tuổi xanh thường xuyên san sẻ tâm tình, cùng chung khổ nạn.
     Hồi ức càng nhiều, ký ức càng tươi đẹp bao nhiêu thì quay trở về với hiện thực tác giả lại càng phải đương đầu với hiện thực phũ phàng và đau xót bấy nhiêu, những mộng tưởng của ngày xưa đã vĩnh viễn đi vào quá khứ. Nguyễn Khuyến buộc phải đương đầu với hiện thức rằng Dương Khuê đã ra đi mãi mãi, ông đã mất đi người bạn quý giá nhất cả cuộc đời, giờ chỉ còn lại tấm thân già độc thân giữa thời thế tao loạn.
“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng tay chân rụng rời”
     Ông ko khỏi ngậm ngùi, đau xót một nỗi tiếc thương rằng vì sao Dương Khuê vốn nhỏ tuổi hơn ông, lại bệnh tật cũng sau ông, thế nhưng chẳng hiểu sao “bác vội về ngay”, tin đó làm cho Nguyễn Khuyến sững sờ “tay chân rụng rời”, vì ko thể tin nổi trước hung tin như sét đánh ngang tai đó. Giờ đây bạn hiền đã về với miền cực lạc, để lại Nguyễn Khuyến một thân già với nỗi đớn đau, hụt hẫng và hoang mang vô cùng.
“Người nào chẳng biết chán đời là phải,
Vội vã sao đã mải lên tiên;
Rượu ngon ko có bạn hiền,
Ko sắm ko phải ko tiền ko sắm.
Câu thơ nghĩ đắn đo ko viết,
Viết đưa người nào, người nào biết nhưng đưa;
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngơ ngẩn tiếng đàn.”
     Bạn hiền đã mất, còn lại mình Nguyễn Khuyến với nỗi độc thân, trống vắng thì thiết tha gì những thú vui từng một thời say đắm, rượu ngon cũng trở thành vô vị, thú vui làm thơ cũng dần chán nản, bởi còn đâu người vừa ý để vui vầy, sẻ chia nữa. Tình cảm thắm thiết tri kỉ, tri kỷ đó sánh ngang với điển cố của người xưa như tình bạn giữa Trần Phồn – Từ Trĩ, như Tử Kỳ – Bá Nha, sâu nặng, ân nghĩa vô cùng.
     Trở lại với thực tại, trước vong linh người bạn hiền quá cố, Nguyễn Khuyến cuối cùng cũng đã thoát khỏi cái hồi ức xa xăm, trở về với hiện thực đớn đau, xót xa. Nhưng dẫu Dương Khuê có chết đi, thì tình cảm giữa hai người vẫn trường tồn mãi mãi, là thứ trân quý nhất trong cuộc đời nhưng Nguyễn Khuyến hằng trân trọng.
“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”
     Nỗi đớn đau đó đã ko thể chảy thành hàng lệ dài, nhưng Nguyễn Khuyến giấu nó vào trong góc sâu nhất của trái tim, để tưởng nhớ mãi về một người bạn hiền tri kỉ tri kỷ. Những câu thơ cuối là lời buông thật nhẹ nhõm, buồn tủi, là sự chấp nhận của tâm hồn thi sĩ trước sự ra đi của bạn mình. Thôi đành hứa kiếp sau lại được làm tri kỷ, kiếp này duyên trời coi như đã hết.
     Khóc Dương Khuê là bài thơ cảm động và thâm thúy của Nguyễn Khuyến viết để tưởng nhớ về người bạn quá cố, qua đó thấy được những tình cảm đáng quý, thiết tha sâu nặng giữa những người tri kỷ, đồng thời ngợi ca tình bạn thiêng liêng, trăm năm có một của thi sĩ. Bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ êm đềm, chậm rãi, ngôn từ giản dị, tác gỉa tinh tế sử dụng các điển tích điển cố một cách khôn khéo đã làm tăng sức thu hút của bài thơ, diễn tả thành công nỗi buồn của thi nhân đầy xót xa, suy tư và trầm lắng.
Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 2
    Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) để lại khoảng 800 bài thơ chữ Nôm và chữ Hán trong đó có ngót một trăm bài thơ viết về tình bạn. Có bài như “Bạn tới chơi nhà” thì hầu như người nào cũng biết. Viết về Dương Khuê (1839 — 1902) bạn chí thân của mình, Nguyễn Khuyến đã có bốn bài thơ chữ Hán. Riêng bài thơ thứ tư “Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư” (Viếng bạn đồng khoa là Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư) được tác giả dịch ra chữ Nôm thành bài “Khóc Dương Khuê”.
   Đây là bài thơ khóc bạn rất tha thiết cảm động của Nguyễn Khuyến cũng là bài thơ khóc bạn rất nổi tiếng trong nền thơ ca dân tộc. Dương Khuê là bạn đồng khoa với Nguyễn Khuyến tại khoa thi Hương năm 1864. Dương Khuê đỗ tiến sĩ, làm quan to, để lại nhiều bài thơ hát nói tuyệt bút. Từ bạn đồng khoa đã trở nên bạn tri kỉ tri kỉ nên Nguyễn Khuyến mới có thơ khóc bạn cảm động và tha thiêt tương tự. Có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ réo rắt thấm đầy lệ, gồm có 38 câu thơ.
    Mở đầu bài thơ là một tiếng than, tiếng nấc đớn đau:
    “Bác Dương thôi đã thôi rồi,
    Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”.
 Một sự thảng thốt xót thương cất lên, tưởng như bất thần bị đánh rơi mất một cái gì vô cùng quý báu. Nhóm từ “thôi đã thôi rồi” thay cho khái niệm “đã mất”, “đã chết”, “đã tạ thế” V.V.. một lối nói bình dị, làm cắt bớt đi nỗi đớn đau gớm ghê đối với tuổi già. Theo cách tính tuổi của các cụ ngày trước thì Dương Khuê mất lúc 63 tuổi, lúc đó Nguyễn Khuyến đã 68 tuổi rồi. Đúng là tiếng khóc bạn của những bậc cao niên. Hai chữ “nước mây” chỉ hai sự vật cách xa. Nước chảy, mây trôi, xa nhau vời vợi, nghìn trùng cách trở, có mấy lúc gặp nhau. Song, lòng nước chảy, dù đi đâu về đâu vẫn ôm ấp bóng mây trôi. Hình ảnh “nước mây” được liên kết với các từ láy “man mác”, “ngậm ngùi” diễn tả một trời thương xót, một ko gian cách trở rộng lớn, âm dương đôi đường, đau buồn, trĩu nặng.
    Chữ “bác” trong thơ Nguyễn Khuyến mang tính biểu cảm thâm thúy. Thi sĩ xoành xoạch gọi bạn bằng bác, trình bày một tấm lòng kính trọng và thân tình. Chữ “kính” và chữ “lễ” in đậm trong phong cách xử sự của Tam nguyên Yên Đổ: “Bác Dương thôi đã thôi rồi… Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác… Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở”…
    Phần thứ hai gồm 24 câu thơ, tác giả nhắc lại, nhớ lại những kỉ niệm thâm thúy với người đã quá cố. Với nhà nho thì bạn đồng khoa là bạn đẹp nhất, tự hào nhất. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng đỗ đạt, cùng làm quan, tình bạn đó là “duyên trời” tác thành nên:
    “Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
    Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.
    Mến yêu từ trước tới sau,
    Trong lúc gặp mặt khác đâu duyên trời”.
    Các từ ngữ “sớm hôm”, “cùng nhau”, “từ trước tới sau” trình bày một tình bạn vô cùng thân thiết, chung thuỷ. Mỗi một kỉ niệm là một mảnh tâm hồn của thi sĩ được nhắc lại với bao nhiêu giọt lệ. Nguyễn Khuyến như vẫn thấy Dương Khuê đang cùng mình hiển hiện. Phải là bạn ý hợp tâm đầu, phải là những văn nhân mặc khách mới có những kỉ niệm cầm ca, thi tửu đẹp và đáng nhớ tương tự.
    Nhớ những cuộc du ngoạn, thăm thú nơi “dặm khách” chan hoà với tự nhiên, thư thả giữa chốn lâm tuyền: “Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo”. Nhớ những lần cùng nhau đi hát đào nương nơi lầu cao, thưởng thức cung đàn, giọng hát:
    “Có lúc từng gác cheo leo,
    Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”.
    Cầm xoang tức là cung đàn, giọng hát, “Từng gác cheo leo” như còn gợi lại cảm giác ngây ngất trên lầu cao của đôi bạn tri kỉ sành điệu. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê rất sành nghệ thuật hát đào nương, đã sáng tác nhiều hài hát nói nổi tiếng.
    Người xưa có nói: “Tửu phùng tri kỉ thiên bôi thiểu – Thi hội tri kỉ bán cú đa”. Bạn tri kỉ trong hội thơ (chỉ nghe qua) nửa câu thơ đã là nhiều ko cần dài lời cũng đủ hiểu bạn. Nguyễn Khuyến nhớ lại những lần cùng bạn uống rượu làm thơ:
    “Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
    Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
    Có lúc hàn soạn câu văn,
    Biết bao đông bích điển phần trước sau”.
 Chén quỳnh tương là chén ngọc, một cách nói sang trọng. “Rượu ngon cùng nhắp” và hình ảnh “âm ắp bầu xuân” như còn giữ lại một tình bạn trong hương vị nồng nàn, hứng khởi. Nhắc tới chuyện bàn soạn văn học thì đầy ắp những sách vở, điển cố.
    Hai chữ “đông bích, điển phần” biểu lộ niểm tự hào kín đáo của những nhà nho học rộng tài cao.
    Nguyễn Khuyến đã sử dụng cách diễn tả trùng điệp hai nhóm từ ngữ: “Cũng có lúc” và “có lúc” đan chéo vào nhau, bốn lần xuất hiện trên tám dòng thơ, vừa để liệt kê gợi nhớ, vừa tạo nên âm hưởng vấn vít, thiết tha. Những kỉ niệm đó vô cùng thâm thúy, xinh tươi vể tình bạn, ko bao giờ có thể quên được.
    Có kỉ niệm vui, có kỉ niệm buồn. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng làm quan to dưới thời nhà Nguyễn. Nhưng rồi non sông ta bị xâm lược, dân tộc ta bị giặc Pháp thống trị, là kẻ sĩ, là nhà nho “cùng nhau thiến nạn”. Cách xử sự của mỗi người đểu có chỗ không giống nhau. Nguyễn Khuyến đã cáo bệnh, từ quan về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương. Ko tham miếng “đẩu thăng”, lương lậu của triểu đình. Còn Dương Khuê vẫn làm quan. Trong bài thơ chữ Hán “Gửi thăm quan Thượng thư họ Dương”, Nguyễn Khuyến tỏ ra rất thông cảm với bạn: “Tôi biết bác vì cha mẹ phải làm quan để lấy tấm lụa -Bác biết tôi nghèo phải làm quan để kiếm đấu gạo lương”. Hoàn cảnh và cách xử sự tuy có không giống nhau, kẻ làm quan, người từ quan, nhưng Tam nguyên Yên Đổ vẫn tỏ ra bao dung bạn, vẫn “mến yêu từ trước tới sau”, ko bao giờ thay lòng đổi dạ:
    “Bác già tôi cũng già rồi,
    Biết thôi, thôi thế, thì thôi, mới là”.
    Chữ “rồi” vần với ba chữ “thôi” liên tục như một tiếng thở dài, tự xoa dịu mình, như muốn quên đi thật nhanh những điều bất khoái trá. Ko nỡ, ko muốn nhắc tới nữa mới là bè bạn tâm giao!
    Hiện giờ hai người đã đôi đường âm – dương vĩnh biệt. Khóc bạn, Nguyễn Khuyến nhớ lại lần gặp bạn cuối cùng. Ăn năn vì đường xa, vì tuổi già sức yếu. Chữ “nhác” rất hay, nghĩa trong văn cảnh là ngại. Các chữ: “cầm tay” và “mừng rằng” trình bày một tấm lòng quý mến, thương yêu. Đoạn thơ làm tái tạo một quang cảnh cảm động của đôi bạn già sau nhiều năm xa cách mới gặp lại nhau:
    “Muốn đi lại, tuổi già thêm nhác,
    Trước ba năm gặp bác một lần,
    Cấm tay hỏi hết xa gần,
    Mừng rằng bác vẩn ý thức chưa can”.
    “Ý thức chưa can” ý nói sức khoẻ vẫn phổ biến, ý thức vẫn sáng suốt. Thế nhưng bạn đột ngột tạ thế. Hình ảnh “tay chân rụng rời” cực tả nỗi đớn đau, sững sờ ko kể xiết. Đoạn thơ sau đây trình bày rất đúng, rất thâm thúy tâm lí và tình cảm người già khí được tin bạn mất:
    “Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
    Tôi lại đau trước bác mấy ngày.
    Làm sao bác vội về ngay?
    Chợt nghe tôi bổng tay chân rụng rời!”.
    Giọng thơ kể lể, tự tình. Trong lời than thấm đầy lệ. Các tiếng “tôi” và “bác” xuất hiện nhiều lần trong đoạn thơ như hai vong linh đang nương tựa vào nhau; nỗi đau buồn như được nhân lên gấp bội.
    Đoạn thơ hồi ức này, những kỉ niệm được trình diễn theo trình tự thời kì, từ “thuở đăng khoa” tới ngày bạn tạ thế. Phép liệt kê, trùng điệp được vận dụng để gây ấn tượng vể một tình bạn lâu bền, thâm thúy, thuỷ chung và vô cùng thắm thiết. Người Việt chúng ta, nhất là các cụ già lúc khóc người thân quá cố thường kể lể gợi nhắc mọi kỉ niệm ngụ ý tiếc thương. Có lúc ta cảm thấy người sống đang hội thoại và tâm tư với người đã khuất. Sáu đoạn thơ đã kể lại đủ hết các thời đoạn của tình bạn, lời kể nào cũng thành tâm, đượm đà. Nguyễn Khuyến vừa kể lể, vừa nức nở.
   Tám câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là tự khóc mình, giọng thơ ngày một thêm não nùng, thê thiết. Ông trách bạn “vội đi xa” để mình lẻ loi, độc thân. Cuộc sống trở thành ngao ngán, vô nghĩa:
    “Người nào chẳng biết chán đời là phải,
    Sao vội vã đã mải lên tiên;
    Rượu ngon ko có bạn hiền,
    Ko sắm ko phải ko tiền ko sắm”.
   Sau chữ “chẳng” xuất hiện liên tục 5 chữ “ko” gợi tả cái trống vắng, cái độc thân của thi sĩ, của cảnh già. Kẻ đi xa và người ở lại cùng chung nỗi niềm tâm tư “chán đời là phải”. Thi sĩ kín đáo bộc lộ thái độ đối với thời cuộc trước sau ko thay đổi. Như đã từng thổ lộ:
    “Sách vở ích gì cho buổi đó
    Áo xiêm nghĩ tại: thẹn thân già”.
          (Ngày xuân dặn các con)
   Cho tới trước lúc tạ thế, ông vẫn ko quên trăng trối con cháu:
    “Đề vào mấy chữ trong bia,
    Rằng: Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.
            (Di chúc)
   Bạn mất đột ngột, nỗi tiếc thương, đau xót làm tê tái cả lòng. Sống trong độc thân ngày thêm chơ vơ sầu tủi. Cuộc đời mất hết ý nghĩa: ko muốn uống rượu, ko thiết ngâm thơ, gian nhà và tâm hồn trở thành trống vắng, trơ trọi. Còn đâu nữa bạn tri kỉ tri kỉ?
    “Câu thơ nghĩ đắn đo ko viết,
    Viết đưa người nào, người nào biết nhưng đưa
    Giường kia treo cũng hững hờ,
    Đàn kia gảy cũng ngơ ngẩn tiếng đàn”.
   Lời than khóc trở thành xót xa lúc thi sĩ nhắc lại điển tích Tử Kỳ – Bá Nha và Trần Phổn – Từ Trĩ. Chiếc giường dành riêng tiếp bạn nay đã trở thành “hững hờ”. Tiếng đàn cũng “ngơ ngẩn” mất hồn vì lẻ bạn. Một cách nói thậm xưng để cực tả nỗi đau tê tái lúc bạn thân tạ thế. Lúc còn sống thì đôi bạn cùng đi chơi “dặm khách”, cùng “lựa chiều cầm xoang”, “rượu ngon cùng nhắp”, cùng “bàn soạn câu văn” … Lúc bạn tạ thế chẳng còn người tri kỉ tri kỉ để cùng nhau uống rượu, làm thơ, nghe đàn, năng tới lui thăm nom, chia ngọt sẻ bùi cùng nhau. Nguyễn Khuyến đã có nhiều cách nói rất thâm thúy, cảm động diễn tả sự thương xót bạn và nỗi buồn độc thân của mình.
   Bốn câu cuối bài thơ như một tiếng nấc đớn đau. Tuổi già vốn ít lệ (hạt lệ như sương), nên chỉ biết khóc ở trong lòng. Thương bạn gắn liền với bao nỗi nhớ. Khóc bạn chuyển thành nỗi niềm như cam chịu số phận bi thương. Chỉ cầu mong cho vong linh bạn thanh thản “lên tiên”:
    “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
    Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương,
    Tuổi già hạt lệ như sương,
    Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”.
   Trải qua bao mưa nắng, bao thăng trầm thiến nạn, Tam nguyên Yên Đổ còn đâu nhiêu nước mắt để khóc bạn, chí còn biết “lấy nhớ làm thương”. Tuy nhiên cả bài thơ, nhất là bốn cấu kết đã “chứa chan” nước mắt đau xót. Hai câu thơ: “Bác chẳng ở dẫu vẫn chẳng ở – Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương” với cách diễn tả trùng điệp và tăng cấp đã tạo nên giọng thơ buồn thê thiết, Nguyễn Khuyến để lại nhiều tiếng khóc: khóc cho non sông và dân tộc, khóc vợ, khóc con, khóc bạn,… Tiếng khóc nào cũng xúc động, tê tái, nặng tình, nặng nghĩa. Riêng bài “Khó Dương Khuê” lại được viết bằng thể thơ song thất lục bát, lời khóc bạn càng trở thành thiết tha, não nùng, lúc thì nức nở, thảng thốt, lúc thì kể lể thở than,lúc thì phân trần, lúc thì trách móc, lời thơ thủ thỉ như nói với người còn sống, rất cảm động Giọng thơ liền mạch, lời thơ tinh tế, biểu cảm đã trình bày nghệ thuật vừa bình di, vừa điêu luyện.
   “Khóc Dương Khuê” trình bày một tình bạn đẹp và cảm dộng của nhà nho thuở trước. Sau một thế kỉ, chúng ta vẫn thấy ngậm ngùi xúc động lúc đọc bài thơ này. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là khóc cho một thế hệ nhà nho và cũng là tự khóc cho minh: “Người nào chẳng biết chán đời là phải”…
Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến do bangtuanhoan.edu.vn sưu tầm được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!
Đăng bởi: bangtuanhoan.edu.vn
Phân mục: Lớp 11, Ngữ Văn 11

Xem thêm chi tiết về Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến
Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài v… ở đây:

Bạn thấy bài viết Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến
Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài v…
có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu  không hãy comment góp ý thêm về Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến
Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài v…
bên dưới để bangtuanhoan.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website bangtuanhoan.edu.vn

Nhớ để nguồn: Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến
Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Với những bài v…
tại bangtuanhoan.edu.vn

Chuyên mục: Kiến thức chung

Viết một bình luận