Tác giả tác phẩm? Dàn ý phân tích hình ảnh bà cụ Tứ? Bài mẫu 1 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ? Bài mẫu 2 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ? Bài mẫu 3 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ?
Một trong số những tác phẩm văn học có trị giá hiện thực cao đó là tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Mỗi nhân vật lại là một nét vẽ chân thực của nhà văn Kim Lân về đời sống thực tại. Chính vì lẽ đó, hôm nay chúng tôi muốn gửi tới độc giả những bài văn mẫu về phân tích hình ảnh nhân vật bà Cụ Tứ để giúp các em phục vụ cho ôn tập và có một kì thi hiệu quả.
1. Dàn ý phân tích hình ảnh bà cụ Tứ:
Mở bài: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
Thân bài:
Nói chung về bà cụ Tứ:
Là một người nông dân nghèo khổ, cũng là nạn nhân của nạn đói thảm hại năm 1945
Cuộc sống khổ cực, dáng đi “lụm cụm”, “vừa đi vừa lẩm thiên bẩm toán”.
Diễn biến tâm trạng:
Cái bất thần lúc thấy đàn ông nóng tính, cái “bất thần” lo lắng vì ko hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Nhìn thấy người phụ nữ trong nhà, bà lại càng ngạc nhiên hơn và thắc mắc “lạ…người nào vậy?”
Sau lúc nghe Tràng giảng giải, bà “câm nín”:
Sáng hôm sau:
Gương mặt bà “quạnh quẽ hiu hắt”, hôm nay “nhẹ nhõm, khác hẳn ngày thường”, “nhẹ người lên”: bà vui vẻ, phấn khởi.Bữa cơm thật thảm hại nhưng cả nhà đều ăn ngon lành.Bà lão nói “có hỷ sự, vạn sự mừng lai”: sự sáng sủa, yêu đời.
Nghệ thuật khắc họa nhân vật.
Kết bài: Nhận định lại trị giá nội dung và trị giá nghệ thuật.
2. Bài mẫu 1 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối trước nạn đói kinh khủng năm 1945. Kim Lân ko mô tả hiện thực tàn khốc của nạn đói lúc bấy giờ nhưng tập trung trình bày vẻ đẹp của nạn đói, vẻ đẹp ý thức ẩn sau vẻ ngoài đói khát của người nghèo. Trong cảnh đấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và kỳ vọng vào một tương lai tươi sáng. Trong “Vợ Nhặt” xuất hiện ba nhân vật: Tràng, cụ Tứ và người vợ nhặt, bà cụ Tứ – mẹ Tràng càng gây được thiện cảm với người đọc bởi tấm lòng nhân hậu, vị tha, đức hi sinh cao cả của bà.
Kim Lân để bà cụ Tứ xuất hiện giữa tác phẩm nhưng bà cụ Tứ lại trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm. Lúc mô tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thực tới từng hình ảnh, cụ thể. Bà cụ Tứ hiện lên trong vai một người mẹ có số phận xấu số vì chồng mất sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, chỉ còn lại một người đàn ông làm nghề đánh xe bò. Vì vậy, hai mẹ con sống trong căn nhà xập xệ, chui rúc trong xóm và người đàn ông có nguy cơ mất vợ. Nỗi thống khổ, tủi nhục của cuộc đời đè nặng lên thân phận tạo nên tính cách của bà. Chân dung bà cụ Tứ được tác giả dần dần giới thiệu. Khởi đầu là “tiếng người hắng giọng ho sặc sụa”, rồi một bà lão có dáng vẻ “cười tươi” từ đầu ngõ “vừa đi vừa lầm bầm gì đó trong mồm”. Tính từ “lum khum” rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc tưởng tượng ra phết người gầy guộc, ngoằn ngoèo của người mẹ già vì gánh nặng cuộc đời, cảnh nghèo túng. Và chính sự nghèo túng cũng khiến gương mặt bà hiện lên một vẻ “u ám”. Qua việc mô tả ngoại hình của bà cụ Tứ, ta thấy được đó là một người mẹ có cuộc đời xấu số, khổ cực.
Chiều hôm trước, bà cụ Tứ đang trong tâm trạng ngạc nhiên lúc từ ngoài ngõ bước vào, thấy Tràng có thái độ khác thường “vui như con trẻ” và “chạy ra đón con”, bà cụ theo đàn ông vào trong nhà với tâm trạng “ngỡ ngàng”. Đó là biểu lộ của sự lo lắng, bồn chồn vì ko biết điều gì đang hy vọng mình ở nhà. Lúc ra tới giữa sân, nhìn thấy người phụ nữ, bà lão ngạc nhiên “ngừng lại”. Điều đó cho thấy sự ngạc nhiên trong bà ngày càng nhiều, ngạc nhiên sau lớn hơn ngạc nhiên trước. Tác giả đã sử dụng tiếng nói độc thoại nội tâm để diễn tả nỗi băn khoăn, thắc mắc của bà lão lúc này. Một loạt câu hỏi hiện lên trong đầu bà già: “quái, sao lại có một người phụ nữ trong đó? Người phụ nữ nào đang đứng đầu giường đàn ông mình? Vì sao lại chào tôi bằng u? Người nào vậy? ” Hàng loạt câu hỏi là sự lục lọi trong đầu bà để tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Nhưng bà lão vẫn chưa tìm ra câu trả lời nên đổ lỗi cho đôi mắt của mình, ko tin vào mắt mình “bà lão chớp chớp mắt cho đỡ xốn xang vì bỗng bà lão nghĩ con mắt của mình bị lác”. Bà cụ “lại nhìn kỹ người phụ nữ, vẫn ko nhìn thấy người nào” nên quay sang hỏi người con với sự ngạc nhiên khó hiểu của chính mình. Lúc người phụ nữ nhìn thấy bà lão về nhà và chào “u”, ngay cả lời chào đó – một lời chào thân tình cũng ko thể làm cho bà hiểu được. Bà còn đang băn khoăn, thắc mắc rồi đoán già đoán non, lại thêm một câu hỏi: “Chào u?”. Mãi tới lúc Tràng giới thiệu và giảng giải “đây là nhà tôi” và “chúng tôi phải duyên phải số nhưng sống với nhau” thì bà lão mới mở màn hiểu ra. Lúc hiểu ra, bà lão “cúi đầu yên lặng”. Tư thế “lặng lẽ cúi đầu” của bà cụ Tứ chất chứa biết bao tâm tư, tình cảm, xúc cảm khó diễn tả thành lời. Hình như qua tư thế đấy, người đọc dần nhìn thấy nội tâm phong phú trong vẻ ngoài tưởng như già nua, đờ đẫn của bà. Ở bà, đồng thời xuất hiện cả con người lý trí và con người yêu cảm. Người có lý ko chỉ giúp bà hiểu đàn ông mình đã có gia đình nhưng nó còn giúp bà hiểu những trắc trở, nghèo túng nhưng Tràng phải chịu đựng; để rồi giúp bà hiểu ra rằng, chính số phận xấu số đã khiến các con chị phải sống trong hoàn cảnh trớ trêu tương tự. Còn người bà xúc động tỏ ra rất “cảm thương cho số phận của con mình”. Lời than vãn đấy, sự ngậm ngùi đấy vừa hướng vào bản thân bà, vừa hướng về đàn ông bà, vừa bộc lộ nỗi đau của chính bà, vừa mang tới tình thương cho đàn ông bà. Chính vì vậy nhưng biết bao cảm giác bà lão vừa đáng thương vừa nhân hậu!.
Xúc cảm của bà ngày càng dâng trào: “Ôi chao, người ta cưới vợ gả chồng cho con cái lúc nhà ăn nên làm ra còn mình thì…”. Đọc câu này ta có cảm giác như trái tim của người mẹ nghèo đang rung lên vì đớn đau, xót xa. Tình cảm của người mẹ bao hàm sự so sánh giữa người với mình và con cái trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng cho con. Sự so sánh đấy ko chỉ làm nổi trội sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình nhưng dường như còn chứa đựng sự trách móc của bà đối với chính bản thân mình. Một nỗi hờn tủi cho chính mình! Đó cũng là biểu lộ của nỗi thống khổ trong lòng bà. Nhưng tất cả đều là biểu lộ của tấm lòng nhân ái.
Nỗi xót xa còn trình bày ở sự quan tâm của bà đối với các con: “Ko biết chúng nó có nuôi nhau được qua cơn đói này ko?” Vừa tủi thân, vừa thương con khiến “hai dòng nước mắt lưng tròng”. Bà lão kìm nén xúc cảm, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào trái tim vốn đã chất chứa bao thống khổ của một kiếp lầm than. Nước mắt vẫn lặng thầm chảy ra từ đôi mắt đục ngầu của người mẹ già tội nghiệp. Đoạn văn ko chỉ là những câu tường thuật thuần tuý nhưng mỗi câu đều tràn đầy niềm ngậm ngùi của tác giả.
Diễn biến của câu chuyện đã tới hồi cao trào. Sự sắc sảo, tinh tế trong nghệ thuật mô tả tâm lí nhân vật của Kim Lân được trình bày khá đậm nét. Cả ba nhân vật đều có chung tâm trạng căng thẳng. Tràng và “vợ nhặt” chờ mẹ già lên tiếng. Lúc bà cụ Tứ hiểu ra chuyện, nỗi xót xa của bà lão “khẽ thở dài” vì bà muốn giấu đi nỗi buồn lo của riêng mình. Bà lão tạm dứt ra khỏi tâm trạng suy tư túc trực để nhìn người vợ nhặt, để “ngắm người phụ nữ” lúc nàng “cúi mặt xuống, tay sờ soạng vạt áo rách”. Bà cụ ko chỉ nhìn con dâu bằng con mắt nhưng còn hướng về con dâu bằng cả tấm lòng. Vì vậy, bà cụ nghĩ: “Người ta nhưng gặp bước gian nan đói khổ này thì chỉ tới con mình thôi, con mình mới có vợ…”. Trong suy nghĩ đó của người mẹ hướng tới hai nhân vật “người khác” và “con mình”. “Người” trở thành ân nhân và “con tôi” là kẻ mang ơn. Điều đó đã chứng tỏ rằng người mẹ già ko hề khinh thường người vợ nhặt nhưng còn thông cảm, kính trọng dù cô là một người phụ nữ rách rưới, nghèo túng, ko gia đình. Từ tấm lòng cho người vợ nhặt, bà cụ nghĩ tới phận sự làm mẹ, tiếp tục dằn vặt “ko thể chăm sóc con…”. Bà tin tưởng và hy vọng số phận tùy duyên: “May sao qua được đoạn này, đàn ông cũng có vợ, yên bề thất gia, chẳng may bà chết thì cũng yên lòng . Tình cảnh thật bi đát! Dù lo lắng, dù đau buồn nhưng dường như người mẹ đã chấp nhận “cô dâu mới” từ lúc nào ko hay. Sau lúc “khẽ hắng giọng”, bà lão “nhẹ nhõm” nói với “cô dâu mới”: “Được, được, thế thì phải duyên với nhau, mẹ cũng vui lòng…”. Mẹ vui vẻ nhận lời tự nguyện. Hai chữ “mừng lòng” nhưng bà cụ nói với các con thật giản dị và chân tình biết bao! Những lời nói giản dị đấy đã đem lại niềm xúc động và an tâm cho người vợ nhặt nghèo. Việc bà cụ Tứ nhận lời khiến ông Tràng “thở phào nhẹ nhõm, lồng ngực nhẹ thênh”.
Người mẹ nghèo nhân hậu thấu hiểu hoàn cảnh và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ bỗng chốc trở thành “con dâu” của bà. Tiếng nói độc thoại nội tâm ở đoạn văn này một lần nữa mô tả tinh tế tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ Tứ. Xúc cảm đấy như những đợt sóng cuộn lên trong lòng mẹ khiến người đọc ko khỏi ngùi ngùi. Ôi chao, tội nghiệp mẹ!. Tình mến thương con và ý thức trách nhiệm của một người mẹ khiến người mẹ lo lắng về việc cưới con bằng tất cả sức lực của mình.
Lúc đón “nàng dâu mới”, bà Tứ tiếp tục tâm tư, từ tốn dặn dò các con: “Nhà mình nghèo, vợ chồng mày bảo nhau làm ăn, rồi may ra ông trời cho. Biết sao được, người nào giàu ba đời, người nào khó ba đời, trong tâm tư của bà, có một lời thú nhận rất thiệt thà rằng “nhà ta nghèo”, từ lẽ đó, người mẹ đã nhắc nhở các con rằng, “Vợ chồng bảo nhau làm ăn”, dù nhắc nhở tương tự nhưng bà cũng động viên các con bằng câu nói rất thân thuộc trong dân gian: “Người nào giàu ba họ, người nào khó ba đời?”. trình bày sự sáng sủa của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh khó khăn, hơn thế nữa bà lão còn truyền cho người con niềm tin vào tương lai, là nguồn động viên quý giá giúp người con vượt qua thời kỳ khó khăn này.
Tâm trạng bà cụ Tứ vừa buồn, vừa vui, vừa lo. Trong lòng bà lão luôn bị ám ảnh bởi cái nghèo, cái khổ khiến bà lão “ngước mắt ra bóng tối che mắt bà. Xa xa, dòng sông trắng uốn khúc trên cánh đồng tối. Những ngôi nhà người chết trong gió cháy. Bà cụ thở dài thườn thượt.” Trong lòng bà cũng bị ám ảnh bởi nỗi xấu số về thân phận của mình. Vì vậy, trong kí ức của bà cụ “nghĩ tới ông già, nghĩ tới đứa con gái út. Bà lão nghĩ tới cuộc đời dài dằng dặc của mình”. Tất cả hiện lên như một cuốn phim dài vô tận, như một tấn thảm kịch của cuộc đời bà. Từ những xúc cảm đấy, nỗi băn khoăn lại một lần nữa xuất hiện trong bà, bà lo lắng cho những đứa con của mình: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau rồi liệu cuộc sống của chúng có khá hơn bố mẹ trước đây ko?…”. Dù lo lắng nhưng bà vẫn phấn đấu lại gần con dâu với lời mời thân tình: “Ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây kẻo mỏi chân”. Lời mời đó đã rút ngắn khoảng cách giữa mẹ và “con dâu”, đồng thời cũng xoa dịu được ít nhiều cho “vợ nhặt”. Lời mời của mẹ trình bày sự yêu quý và chấp nhận “cô dâu mới” của mẹ. Nổi trội nhất vẫn là tấm lòng thương xót của bà cụ Tứ với cô con dâu mới: “Bà lão nhìn người nhưng lòng đầy thương hại. Nàng nay đã là con dâu trong nhà”. Bà cụ tiếp tục tâm tư với người vợ nhặt bằng những lời lẽ thân tình: “Làm được vài mâm cỗ cũng đúng, nhưng nhà nghèo. Năm nay, nhà đói. Hiện giờ chúng nó thành hôn, bà cũng thấy đau xót … “. Qua lời bà lão chứng tỏ bà là người hiểu đời, hiểu người. Bà hiểu rằng cưới vợ cho con cái thì phải có vài mâm cỗ trước để cúng tổ tiên, ông bà, sau đó mới mời thôn ấp. Bà cũng hiểu lòng người, hiểu lòng bao dung của mọi người, họ sẽ thông cảm cho sự nghèo túng của Bà nhưng ko chấp nhặt, tính toán. Bà cũng hiểu đạo lý tạo nên sự gắn bó giữa vợ chồng chính là sự hòa thuận. Tới đây, bà cụ “ko nói được nữa, nước mắt cứ chảy dài”. Những giọt nước mắt của bà Tứ tràn đầy tình thương con. Những giọt nước mắt của mẹ là biểu lộ tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Nó quý giá hơn rất nhiều so với những thứ tầm thường nhưng mẹ dành cho con.
Tâm trạng của Tứ chiều hôm trước là sự lo lắng, vui, buồn lộn lạo, nhưng sáng hôm sau, tâm trạng của bà luôn ngập tràn thú vui. Thú vui đấy được trình bày trên khuôn mặt người mẹ: “mẹ nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn mọi lúc, khuôn mặt ủ rũ, ủ rũ của mẹ bừng sáng lên”. Thú vui còn trình bày qua hành động: “ quét nhà” của bà với suy nghĩ “sắp xếp nhà cửa cho khang trang, ngăn nắp thì cuộc sống của họ mới có thể khác đi, việc làm ăn mới có dịp khấm khá hơn”. Bà ko thể ko hạnh phúc lúc đàn ông mình thành hôn. Bà cũng trút bỏ được nỗi băn khoăn canh cánh trong lòng từ lâu, bữa cơm trước hết của ba mẹ con, dù chỉ là “rau chuối thái, đĩa muối ăn với cháo” nhưng “tất cả đều nói chuyện vui vẻ. Câu chuyện người mẹ già kể với con trong bữa cơm trước hết sau ngày cưới, tuy vẫn là chuyện làm ăn, gia đình nhưng trong câu chuyện của bà ko còn quá khứ nhưng chỉ còn tương lai. Câu chuyện của bà thật đơn giản! Đó là chuyện sắm gà, nuôi gà, có một đàn gà con nhưng mẹ nói với Tràng: “Tràng ơi, có tiền thì sắm một cặp gà, mẹ thấy đầu bếp làm chuồng gà ở đâu tiện lắm. , ngoảnh đi ngoảnh lại, có một đàn gà con ngay đó…”. Chính câu chuyện của mẹ đã khiến cuộc sống vui vẻ và ấm áp hơn rất nhiều. Tuy nhiên, bữa ăn ngày càng trở thành nghèo nàn khiến “chuyện bữa cơm vui vẻ chợt tắt. Nồi cháo loãng, mỗi người được hai bát lưng”. Tuy nhiên, bà lão “ vào bếp bưng ra một nồi khói bốc ngun ngút” và bà lão tấm tắc khen “chè đây, ngon quá”. Bà cụ dường như đang cố xua đi bầu ko khí u ám, cố quên đi hoàn cảnh khốn cùng bằng một thái độ vui vẻ. Bên trong vẻ tươi tỉnh đấy là một trái tim người mẹ đang thổn thức lo lắng. Bà lão “thiết đãi” cô dâu mới món đặc sản “cháo” nấu bằng cám tấm tắc khen “ngon ” và so sánh “xóm mình còn ko có cám nhưng ăn”. Qua đó, bà đã động viên các con, để các con có thêm sức mạnh ý thức vượt qua khó khăn, vất vả này. Cụ thể này khiến chúng tôi cũng phải rơi nước mắt trước tình cảm đáng quý và sự chân tình của bà. Kết thúc đoạn văn là giọt nước mắt của người mẹ, còn bà lão thì “mau ngoảnh mặt đi. Bà lão ko dám để giọt nước mắt rơi. Bà phấn đấu xua đi nỗi ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại và truyền niềm tin, thú vui cho các con. Trong tấm thân gầy guộc, héo mòn vì đói khát đấy vẫn bừng lên một ý chí sống mãnh liệt.
Qua truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã xây dựng một hình ảnh chân thực và cảm động về người mẹ nghèo hết lòng vì con. Ngòi bút tinh tế, sắc sảo của tác giả đi sâu phân tích diễn biến tâm lý phức tạp của bà cụ Tứ và trình bày điều đó qua từng lời nói, ánh mắt, trong suy nghĩ, hành động và cả sự trằn trọc cho tương lai của các con. Phải là một người có đời sống phong phú, hiểu và thông cảm, mến thương và tôn trọng những người nghèo khổ thì Kim Lân mới có thể diễn tả sống động và tài tình tới thế.
3. Bài mẫu 2 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Kim Lân là một trong những nhà văn chuyên viết về người nông dân. Những câu chuyện của ông luôn đơn giản và thẳng thắn như hình ảnh của chính anh. “Vợ nhặt” là tác phẩm của ông lấy bối cảnh những năm đói kém 1945, câu chuyện đầy thương cảm về những kiếp người nghèo khổ đùm bọc nhau trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”. Và sáng ngời trong cảnh đói khổ đấy là tình người dành cho nhau. Hình ảnh bà cụ Tứ – người mẹ già nghèo khổ với những xúc cảm, tâm trạng phức tạp lúc chứng kiến đứa đàn ông duy nhất “nhặt vợ” đã để lại nhiều ấn tượng thâm thúy trong lòng người đọc.
Nhân vật chính trong tác phẩm Vợ Nhặt là anh chàng tên Tràng, sống ở xóm trọ. Giữa những năm tháng đói khát, anh kéo xe thồ thuê kiếm sống và một lần, anh bắt gặp một người phụ nữ nghèo ngồi bên vệ đường để “chờ nhặt hột rơi vãi”, chị đẩy cùng anh xe bò kéo sau vài câu đùa vu vơ. Lần thứ hai anh gặp lại cô là lúc cô đói tới mức “gầy quá” và anh mời cô ăn bánh. Chỉ với bốn bát bánh, cô chấp nhận theo anh về làm vợ.
Có thể nói, tình huống truyện nhưng Kim Lân dựng lên là vô cùng lạ mắt và “không tiền khoáng hậu” trong nền văn học Việt Nam. Qua đó, ta chợt động lòng trước sự mỏng manh, nghèo túng của con người trong nạn đói, nhưng hơn hết là niềm xúc động mãnh liệt trước tình mến thương, đùm bọc lẫn nhau của những người dân nghèo giữa đói khát. Trong bức tranh ấm áp tình người ta còn bắt gặp hình ảnh người mẹ già với tấm lòng hết lòng mến thương con và người, đó là bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ – mẹ Tràng hiện lên chỉ qua vài dòng giới thiệu ngắn gọn của tác giả. Đó là một bà già, nghèo túng, cư dân trong xóm. Dáng đi của bà rất “luộm thuộm”, chậm rãi và “vừa đi vừa lẩm nhẩm điều gì đó trong mồm”. Bà xuất hiện với dáng vẻ của một người phụ nữ đầy vất vả và thống khổ. Bà có một cậu đàn ông nhưng chưa bao giờ nghĩ tới chuyện lấy anh, vì nhà nghèo quá, đói quá, người nào nỡ gả vào một ngôi nhà chỉ là “nhà hoang đứng co ro” để tiêu xài ko đủ? Vậy nhưng giữa lúc đói kém khốc liệt nhất, Tràng lại đem về một “người vợ”, người phụ nữ nhưng Tràng “nhặt được” lúc đi làm thuê. Ở cái thời buổi tới cái thân cũng ko lo nổi như thế này, lúc Tràng lấy vợ, bà cụ sẽ phản ứng ra sao? Bà sẽ chấp nhận làm dâu “chưa cưới” hay trách đàn ông đã “qua mặt”, “lấy lại nợ đời”?
Lúc thấy cậu đàn ông “dũng cảm” đón từ đầu ngõ, phản ứng trước hết của bà là bất thần. Một sự “bất thần” dâng lên trong lòng bà cụ, bà ko hiểu sao hôm nay đàn ông mình lại có thái độ lạ lùng tương tự! Và sự ngạc nhiên của bà càng tột độ lúc nhìn vào trong nhà, thấy một người phụ nữ khác đang “đứng đầu giường con bà” và “chào bà bằng u”. Bà lão “ngừng lại”, vẻ lo lắng dường như làm đôi mắt già “nhòe”, bà “chớp” mắt, cố “nhìn kỹ” người phụ nữ. Sự ngạc nhiên và bối rối bao trùm lấy bà lão tội nghiệp, bà vô cùng ngạc nhiên, ko hiểu chuyện gì cho tới lúc đàn ông lên tiếng.
Lúc đàn ông giảng giải mọi chuyện, bà bỗng “cúi đầu yên lặng”. Trong lòng mẹ là gì? Kim Lân đã khôn khéo dẫn dắt tâm trạng của người mẹ già đấy, khôn khéo để người đọc thấy được những thay đổi đang cuộn trào trong lòng người phụ nữ đấy. Bà cúi đầu yên lặng, nhưng trong lòng chợt hiểu, “bà già hiểu rồi”. Bà hiểu rằng đàn ông bà giờ đã có gia đình, có người khác bầu bạn, nhưng nếu lấy vợ giữa lúc túng quẫn nhất của cuộc đời thì sao?
Có nhẽ, người phụ nữ đáng thương đấy đã phải khóc nhiều lần trong đời, nhưng giọt nước mắt lần này lại khác. Đó là tình thương, là sự xót xa cho Tràng, từ “giọt nước mắt lưng tròng”. Giọt nước mắt đấy “vừa xót xa, vừa thương cho số phận đứa con của mẹ”. Tuy nhiên, bà cũng hiểu rằng nhà mình nghèo, con bà lại xấu xí, nay có bạn đồng hành, cô hạnh phúc biết bao! Cô vừa tiếc nhưng cũng vừa mừng cho con.
Mẹ càng thương con bao nhiêu thì mẹ càng thương chính mình bấy nhiêu. Bà tiếc thương cho số phận đáng thương của mình cả đời. “Ôi chao, người ta cưới gả con cái là lúc trong nhà ăn nên làm ra, còn mình…” Sự yên lặng trong dòng suy nghĩ của bà là sự tủi thân. Cả đời bà vất vả nhưng ko làm được gì cho con, thấy thương con vì ko lo được lấy chồng. Tới nay, lúc các con đã có vợ, bà vừa mừng vừa buồn.
Thương con, thương mình, rồi lại “ngậm ngùi nhìn người phụ nữ đấy”, bà chợt thấy thương người phụ nữ này. Người phụ nữ tội nghiệp đáng thương đấy đã phải đi tới “bước khó khăn, đói khổ này mới bám lấy con mình”. Bà thông cảm cho cô đấy, thông cảm cho sự cực chẳng đã của cô đấy, trái tim Bà đấy “đầy thương hại” cho người phụ nữ trước mặt.
Chỉ thế thôi nhưng người đọc có thể thấy rõ tấm lòng của người mẹ già đấy. Đó là tấm lòng của một người phụ nữ rất đỗi thương con và thương những người đồng hoàn cảnh như mình. Bà cụ Tứ ko chỉ thông cảm nhưng còn thấu hiểu nỗi lòng của người phụ nữ đáng thương, hiểu để chấp nhận nàng về làm dâu nhà mình. Sau cuối, bà cảm thấy sung sướng, hạnh phúc vì đứa con xấu xí của mình giờ đã có bạn đồng hành, bà mở lòng với nàng dâu mới “thôi thì hai đứa có duyên nhưng sống với nhau thì cũng vui”. Và bà cũng chỉ mong “làm được mấy mâm cũng được” để mừng con dâu mới vào nhà, nhưng giờ giữa cảnh đói khát này, bà chỉ mong “con bà hạnh phúc”. Đó là tấm lòng của người mẹ, tấm lòng của người phụ nữ đầy nhân ái!
Nhưng cùng với thú vui có dâu mới là nỗi lo lắng, tủi hờn tới tột cùng. Bởi Tràng và Thị tới với nhau trong hoàn cảnh “kẻ chết như ngả rạ”, những đứa con còn sống “xanh như xám”.
Họ tới với nhau là hạnh phúc, nhưng cũng là “nhận nợ đời”. Từ lúc biết họ lấy nhau, bà cụ rưng rưng nước mắt tự hỏi: “Ko biết có nuôi được nhau qua cơn đói này ko?”, những năm tháng đấy tưởng hình như là một thú vui tuyệt vời, cũng xen lẫn với những tiếng thở dài, xen lẫn với bóng tối của sự chết chóc, của tiếng quạ kêu: “bà lão nghĩ cho cuộc đời dài dằng dặc của mình. Nếu vợ chồng chúng nó lấy nhau liệu cuộc sống của họ có tốt hơn bố mẹ trước ko?”.
Tâm trạng bà cụ Tứ thay đổi lúc biết Tràng “nhặt thị” về làm vợ. Nó chuyển từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, từ ngạc nhiên tới thương cảm, từ hạnh phúc tới lo lắng vô bờ bến. Tuy nhiên, ta vẫn thấy được tấm lòng mến thương con của một người mẹ, sự đồng cảm và thấu hiểu của một người phụ nữ từng trải với một người phụ nữ xa lạ khác, và cả sự kính trọng của một người mẹ chồng. với con dâu mới trong nhà. Có dâu mới trong hoàn cảnh này là phải chia miếng ăn, sẻ đời nhưng bà lão vẫn sẵn sàng chấp nhận. Bà cụ Tứ đúng là người phụ nữ giàu đức hi sinh và tấm lòng nhân ái!
Tâm trạng của bà thay đổi ko chỉ trong buổi tối hôm đó nhưng cả sáng hôm sau lúc cô trở thành con dâu của bà. Nếu như trước đây, gương mặt bà “quạnh quẽ, u ám” thì hôm nay, gương mặt bà “nhẹ nhõm, khác hẳn ngày thường”, “sáng rỡ hơn hẳn”. Phải chăng một tia kỳ vọng sống mới đã nhen nhóm trong lòng bà lão? Một sự nhẹ nhõm, hạnh phúc, một niềm tin tràn đầy vào tương lai phía trước?
Trong bữa cơm đón dâu mới chỉ có “mớ rau chuối thái rối, đĩa muối ăn với cháo” nhưng cả gia đình ba người “ăn rất ngon”. Lễ mừng dâu mới thê thảm biết bao, nhưng trong lòng mỗi người lại tràn trề thú vui mới và một niềm tin vào cuộc sống. Bà Tứ trước kia ủ rũ tương tự, hiện thời sắc mặt rất xa lạ. Bà kể “hết chuyện vui, tính chuyện vui tính sau”. Đó là trái tim sáng sủa, yêu đời, ham sống của người mẹ già muốn truyền lại cho con cháu niềm tin về một cuộc sống mới hạnh phúc, đủ đầy hơn.
Bà cụ Tứ là nhân vật tuy chỉ xuất hiện ít trong tác phẩm nhưng lại để lại ấn tượng thâm thúy trong lòng mỗi chúng ta. Qua từng diễn biến tâm trạng của bà, ta thấy được tấm lòng của người mẹ già trong đói khát vẫn mến thương con, luôn truyền cho con một niềm sáng sủa sống, niềm tin yêu vào cuộc sống. Và ta còn bắt gặp hình ảnh người phụ nữ thôn quê nghèo nhưng giàu lòng nhân ái sẵn sàng san sẻ “nguồn sống” ít ỏi của mình với người khác trong thời kỳ đói khổ nhất của cuộc đời.
Có thể nói, Kim Lân đã diễn vô cùng thành công lúc mô tả diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ. Từng thời kỳ chuyển biến tâm lí phức tạp của bà cụ đấy được nhà văn mô tả rất chân thực và hợp pháp. Hình như tác giả đã đặt mình vào nhân vật đấy để cảm thu được những rung động thâm thúy nhất trong lòng người mẹ đấy!
Vợ Nhặt là tác phẩm hiện thực xuất sắc lúc phản ánh số phận và vẻ đẹp nhân văn đáng quý của những người nông dân trước Cách mệnh tháng Tám. Nạn đói kinh khủng đã vắt kiệt cuộc sống của con người nhưng đâu đó bên trong những con người như cụ Tứ, Tràng, người vợ nhặt vẫn còn một vẻ đẹp tiềm tàng đáng trân trọng, đó là vẻ đẹp của tình yêu, của sức sống mãnh liệt.
4. Bài mẫu 3 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Ko phải là nhân vật chính, xuất hiện lại ở cuối tác phẩm nhưng bà cụ Tứ – mẹ Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm thêm phần thâm thúy. Với tình cảnh Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói kém, Kim Lân muốn khắc họa số phận bi thương của người nông dân trước Cách mệnh tháng Tám, trình bày sự thông cảm, san sẻ trước khát vọng hạnh phúc. của những số phận xấu số đó.
Đúng trong hình ảnh và thật trong từng cụ thể, Kim Lân dường như ko kể nhưng dẫn ta tới chỗ bà cụ Tứ. Khởi đầu với: “vừa đi vào ngõ vừa lầm bầm điều gì đó”. Ta gặp lại dáng gầy gò, lum khum của người phụ nữ thân thuộc trong đời. Lẻ loi, chậm rãi sau sự “bất thần” trước sự tiếp đón khác thường của con, bà bước vào nhà. Lúc nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường của con mình, cô đã rất ngạc nhiên.
Hàng loạt câu hỏi hiện lên trong đầu óc già nua của bà. “Người phụ nữ nào lại đứng ở đầu giường của đàn ông mình tương tự? Ko phải cái đục. Đó là người nào? Sao phải chào mình bằng u?” Đúng vậy, bà ko ngờ rằng giữa năm nghèo túng, lại có người lấy con bà. Đọc những dòng này, tôi như thấy lòng người mẹ yếu ớt đang rung lên vì đớn đau, ăn năn. Việc quan trọng của đời mình, lẽ ra phải “làm vài mâm cơm”, nhưng “gia đình nghèo quá” nên bà chỉ nghĩ trong đầu, mình ko làm được.
Bà cụ thương đàn ông, hối hận rồi lại thương con dâu. “Người ta phải trải qua bước nghèo túng này, mới lấy con mình nhưng con mình mới có vợ…” Vừa mừng vừa lo, bà trằn trọc trước nỗi lo rất chính đáng của những người từng trải qua cuộc đời vất vả, thống khổ. Cố nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên đàn ông tin tưởng vào tương lai: “Vợ chồng bảo nhau làm ăn người nào giàu ba họ người nào khó ba đời? ” Bà nói với con dâu bằng giọng của một người từng trải – vừa lo vừa thương.
Từ ngạc nhiên tới khoảnh khắc lặng người “thấu hiểu ra bao điều”, từ những giọt nước mắt tội nghiệp, xót xa cho cô con dâu tới nỗi lo “ko biết nuôi nhau qua cơn đói” tới niềm hoan hỉ, niềm tin vào tương lai…, tất cả đan xen, hiện lên dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, trình bày tài tình trong từng suy nghĩ, hành động, lời nói. Thật ko lẫn vào đâu được cách nói vừa nghĩ vừa bối rối vừa nhân hậu của một bà mẹ già thôn quê.
Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa ghi lại một cách khách quan. Đặt nhân vật vào một hoàn cảnh ko gian và thời kì nhất mực, Kim Lân đã trình bày thâm thúy tâm trạng của nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi thấy “mùi đốt mùn của những ngôi nhà có người chết” nhưng “nghĩ tới ông già, nghĩ tới đứa con gái út”, tới “đời khổ của mình” rồi lại lo cho tương lai của con cái: “liệu chúng có tốt hơn cha mẹ của họ trước đây ko?”.
Nghệ thuật “biện chứng của tâm hồn” đã trình bày một cách tài tình trong từng biến thái tinh tế và phong phú của tâm lí người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu và trân trọng đặc thù, phải có một vốn sống phong phú tới mức nào mới có thể diễn tả chân thực và tài tình tới thế. Vợ nhặt ko còn là những trang văn, nhưng là những trang đời – những trang đời đẫm nước mắt đau thương, xót xa, lo lắng cho tương lai và rạng rỡ trong lòng người mẹ nghèo. Hiện thực nhưng cũng rất cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ ko chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tiềm thức nhưng người con vô cùng xúc động trước tấm lòng, trước tình mến thương tha thiết của người mẹ.
Lòng người đọc cũng dâng lên bao nỗi xót xa… Thú vui của bà lão tội nghiệp – thú vui ko thể cất cánh. Bởi lẽ, còn bát cháo cám, vẫn còn tiếng trống đập khiến thú vui ko trọn vẹn… “Bà ko dám để con dâu thấy mình khóc” nhưng người đọc có thể thấy rõ những giọt nước mắt nước. Trong thâm tâm, bà có thể thấy rõ những giọt nước mắt của Kim Lân lúc viết những dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim Lân đã để trái tim mình đập cùng nhịp với trái tim người mẹ nông dân nghèo…
Qua “Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo khổ suốt đời. Sau bà cụ Tứ, ta nhấp nhoáng thấy Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần sống hết lòng vì người thân.
5. Bài mẫu 4 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Thành công của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân trước hết là việc khắc họa đậm nét các nhân vật tiêu biểu: Tràng, bà cụ Tứ, người “vợ nhặt”. Tác phẩm là khúc ca thấm đẫm tình người, trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, con người vẫn cõng nhau, dắt nhau tiến về phía trước. Ko phải là con người Tràng hay “cô vợ nhặt”, nhưng chính hình ảnh người mẹ và bà cụ Tứ mới để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc về tấm lòng người mẹ, tình người, tình mến thương trong cuộc sống.
Kim Lân là nhà văn xuất thân từ từng lớp bình dân. Mong ước trở thành họa sĩ nhưng vì nhà nghèo ko có tiền ăn học nên anh tới với văn học như một cơ duyên. Chính cuộc sống nghèo khổ đã giúp Kim Lân có cái nhìn đầy nước mắt và đồng cảm với những mảnh đời nhọc nhằn. Ông đã xây dựng thành người lao động vật mẹ con cụ Tứ, một người mẹ nghèo trên bối cảnh nạn đói kinh khủng năm Đinh Dậu. Khó có thể tưởng tượng truyện ngắn Vợ nhặt lại ko có nhân vật người mẹ này.
Trước hết, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người phụ nữ tuy nghèo nhưng dù đã cao tuổi vẫn phải bươn chải kiếm sống. Ta có thể nhìn thấy điều này qua một vài cụ thể rất nhỏ: “Từ lùm tre, bà cụ đi vào. Tính nó vẫn thế, vừa đi vừa lầm bầm gì đó trong mồm…”. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc có cảm giác như một bà lão có ngoại hình nhỏ nhỏ, ko còn nhanh nhẹn, những bước chân chậm rãi, vất vả bước ra từ trong bóng tối. Giữa ko gian xóm trọ tồi tàn, người người “tối tăm” vì đói khát, ko khí “khốc lên mùi ẩm thấp của rác thải và mùi xác chết đói” cộng hưởng với tiếng “lẩm thiên bẩm toán” khiến chúng tôi sợ hãi. Còn gì có thể tính toán được trong cảnh “ko còn gì để mất” này? Vì thế, bà cụ Tứ đã bước tới để mang cả “bầu trời” thê lương vào lòng.
Tiếp đó, Kim Lân còn xây dựng nhân vật bà cụ Tứ giàu lòng mến thương, đức hi sinh, luôn mong ước có được cuộc sống hạnh phúc đủ đầy. Bà Tứ là một người mẹ luôn biết cách thấu hiểu cho đàn ông – cu Tràng, hết lòng mong con hạnh phúc. Điều này được trình bày rõ qua diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ xuyên suốt câu chuyện. Lúc đầu thấy anh Tràng chở một phụ nữ về, cụ Tứ “ú ớ”, “ngỡ ngàng”. Rồi bất thần hơn nữa, lúc người phụ nữ kia “chào bà bằng u”. Đã sống hơn nửa đời người, bà Tứ dường như dần hiểu ra mọi chuyện, hai mắt híp lại. Một câu hỏi lớn hiện lên trong đầu bà Tứ: giữa nạn đói kinh khủng này, ăn ko đủ no thì làm sao sống nổi? Bà hiểu tất cả, hiểu khát khao có một mái ấm gia đình nhưng thực tiễn phũ phàng ko cho Tràng thời cơ có một đám cưới tươm tất như bao người. Của hồi môn là vài bát bánh đúc, vợ là người phụ nữ “nhặt” được, thế nhưng, sau một hồi đắn đo, bà Tứ cũng “vui lòng” nhận. Đó chẳng phải là minh chứng cho khát vọng hạnh phúc gia đình của bà cụ hay sao? Bà Tứ ko chỉ thương con nhưng còn là người giàu lòng nhân ái, thương người cùng hoàn cảnh. Bà chấp nhận một người phụ nữ xa lạ làm con dâu dù “ko biết các con có nuôi được nhau ko”.
Bằng tài năng và sự đồng cảm thâm thúy, Kim Lân đã dựng nên “hình ảnh chân thực và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong nạn đói kinh khủng năm 1945”. Bằng tài năng, cùng tình cảm thiết tha với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa gây xúc động, day dứt với người đọc. Chính hành động, lời nói, nụ cười trên gương mặt u ám của bà đã làm bừng sáng câu chuyện sau bóng tối, tuyệt vọng của cuộc sống nghèo túng. Ý nghĩa nhân văn nhưng nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù bị đặt vào hoàn cảnh trớ trêu, kế cận cái chết nhưng vẫn ko đánh mất đi trị giá ý thức và phẩm chất tốt đẹp: lòng mến thương con cái, con người và thái độ sáng sủa hi vọng vào một tương lai tươi sáng dù chỉ là một tia hi vọng mỏng manh. Kim Lân đã phát hiện và trình bày thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.
Bạn thấy bài viết Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt bên dưới để bangtuanhoan.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website bangtuanhoan.edu.vn
Phân mục: Kiến thức chung
Nguồn: bangtuanhoan.edu.vn
Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Hình Ảnh về: Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Video về: Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Wiki về Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt -
Tác giả tác phẩm? Dàn ý phân tích hình ảnh bà cụ Tứ? Bài mẫu 1 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ? Bài mẫu 2 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ? Bài mẫu 3 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ?
Một trong số những tác phẩm văn học có trị giá hiện thực cao đó là tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Mỗi nhân vật lại là một nét vẽ chân thực của nhà văn Kim Lân về đời sống thực tại. Chính vì lẽ đó, hôm nay chúng tôi muốn gửi tới độc giả những bài văn mẫu về phân tích hình ảnh nhân vật bà Cụ Tứ để giúp các em phục vụ cho ôn tập và có một kì thi hiệu quả.
1. Dàn ý phân tích hình ảnh bà cụ Tứ:
Mở bài: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
Thân bài:
Nói chung về bà cụ Tứ:
Là một người nông dân nghèo khổ, cũng là nạn nhân của nạn đói thảm hại năm 1945
Cuộc sống khổ cực, dáng đi “lụm cụm”, “vừa đi vừa lẩm thiên bẩm toán”.
Diễn biến tâm trạng:
Cái bất thần lúc thấy đàn ông nóng tính, cái “bất thần” lo lắng vì ko hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Nhìn thấy người phụ nữ trong nhà, bà lại càng ngạc nhiên hơn và thắc mắc “lạ…người nào vậy?”
Sau lúc nghe Tràng giảng giải, bà “câm nín”:
Sáng hôm sau:
Gương mặt bà “quạnh quẽ hiu hắt”, hôm nay “nhẹ nhõm, khác hẳn ngày thường”, “nhẹ người lên”: bà vui vẻ, phấn khởi.Bữa cơm thật thảm hại nhưng cả nhà đều ăn ngon lành.Bà lão nói “có hỷ sự, vạn sự mừng lai”: sự sáng sủa, yêu đời.
Nghệ thuật khắc họa nhân vật.
Kết bài: Nhận định lại trị giá nội dung và trị giá nghệ thuật.
2. Bài mẫu 1 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối trước nạn đói kinh khủng năm 1945. Kim Lân ko mô tả hiện thực tàn khốc của nạn đói lúc bấy giờ nhưng tập trung trình bày vẻ đẹp của nạn đói, vẻ đẹp ý thức ẩn sau vẻ ngoài đói khát của người nghèo. Trong cảnh đấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và kỳ vọng vào một tương lai tươi sáng. Trong “Vợ Nhặt” xuất hiện ba nhân vật: Tràng, cụ Tứ và người vợ nhặt, bà cụ Tứ – mẹ Tràng càng gây được thiện cảm với người đọc bởi tấm lòng nhân hậu, vị tha, đức hi sinh cao cả của bà.
Kim Lân để bà cụ Tứ xuất hiện giữa tác phẩm nhưng bà cụ Tứ lại trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm. Lúc mô tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thực tới từng hình ảnh, cụ thể. Bà cụ Tứ hiện lên trong vai một người mẹ có số phận xấu số vì chồng mất sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, chỉ còn lại một người đàn ông làm nghề đánh xe bò. Vì vậy, hai mẹ con sống trong căn nhà xập xệ, chui rúc trong xóm và người đàn ông có nguy cơ mất vợ. Nỗi thống khổ, tủi nhục của cuộc đời đè nặng lên thân phận tạo nên tính cách của bà. Chân dung bà cụ Tứ được tác giả dần dần giới thiệu. Khởi đầu là “tiếng người hắng giọng ho sặc sụa”, rồi một bà lão có dáng vẻ “cười tươi” từ đầu ngõ “vừa đi vừa lầm bầm gì đó trong mồm”. Tính từ “lum khum” rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc tưởng tượng ra phết người gầy guộc, ngoằn ngoèo của người mẹ già vì gánh nặng cuộc đời, cảnh nghèo túng. Và chính sự nghèo túng cũng khiến gương mặt bà hiện lên một vẻ “u ám”. Qua việc mô tả ngoại hình của bà cụ Tứ, ta thấy được đó là một người mẹ có cuộc đời xấu số, khổ cực.
Chiều hôm trước, bà cụ Tứ đang trong tâm trạng ngạc nhiên lúc từ ngoài ngõ bước vào, thấy Tràng có thái độ khác thường “vui như con trẻ” và “chạy ra đón con”, bà cụ theo đàn ông vào trong nhà với tâm trạng “ngỡ ngàng”. Đó là biểu lộ của sự lo lắng, bồn chồn vì ko biết điều gì đang hy vọng mình ở nhà. Lúc ra tới giữa sân, nhìn thấy người phụ nữ, bà lão ngạc nhiên “ngừng lại”. Điều đó cho thấy sự ngạc nhiên trong bà ngày càng nhiều, ngạc nhiên sau lớn hơn ngạc nhiên trước. Tác giả đã sử dụng tiếng nói độc thoại nội tâm để diễn tả nỗi băn khoăn, thắc mắc của bà lão lúc này. Một loạt câu hỏi hiện lên trong đầu bà già: “quái, sao lại có một người phụ nữ trong đó? Người phụ nữ nào đang đứng đầu giường đàn ông mình? Vì sao lại chào tôi bằng u? Người nào vậy? ” Hàng loạt câu hỏi là sự lục lọi trong đầu bà để tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Nhưng bà lão vẫn chưa tìm ra câu trả lời nên đổ lỗi cho đôi mắt của mình, ko tin vào mắt mình “bà lão chớp chớp mắt cho đỡ xốn xang vì bỗng bà lão nghĩ con mắt của mình bị lác”. Bà cụ “lại nhìn kỹ người phụ nữ, vẫn ko nhìn thấy người nào” nên quay sang hỏi người con với sự ngạc nhiên khó hiểu của chính mình. Lúc người phụ nữ nhìn thấy bà lão về nhà và chào “u”, ngay cả lời chào đó – một lời chào thân tình cũng ko thể làm cho bà hiểu được. Bà còn đang băn khoăn, thắc mắc rồi đoán già đoán non, lại thêm một câu hỏi: “Chào u?”. Mãi tới lúc Tràng giới thiệu và giảng giải “đây là nhà tôi” và “chúng tôi phải duyên phải số nhưng sống với nhau” thì bà lão mới mở màn hiểu ra. Lúc hiểu ra, bà lão “cúi đầu yên lặng”. Tư thế “lặng lẽ cúi đầu” của bà cụ Tứ chất chứa biết bao tâm tư, tình cảm, xúc cảm khó diễn tả thành lời. Hình như qua tư thế đấy, người đọc dần nhìn thấy nội tâm phong phú trong vẻ ngoài tưởng như già nua, đờ đẫn của bà. Ở bà, đồng thời xuất hiện cả con người lý trí và con người yêu cảm. Người có lý ko chỉ giúp bà hiểu đàn ông mình đã có gia đình nhưng nó còn giúp bà hiểu những trắc trở, nghèo túng nhưng Tràng phải chịu đựng; để rồi giúp bà hiểu ra rằng, chính số phận xấu số đã khiến các con chị phải sống trong hoàn cảnh trớ trêu tương tự. Còn người bà xúc động tỏ ra rất “cảm thương cho số phận của con mình”. Lời than vãn đấy, sự ngậm ngùi đấy vừa hướng vào bản thân bà, vừa hướng về đàn ông bà, vừa bộc lộ nỗi đau của chính bà, vừa mang tới tình thương cho đàn ông bà. Chính vì vậy nhưng biết bao cảm giác bà lão vừa đáng thương vừa nhân hậu!.
Xúc cảm của bà ngày càng dâng trào: “Ôi chao, người ta cưới vợ gả chồng cho con cái lúc nhà ăn nên làm ra còn mình thì…”. Đọc câu này ta có cảm giác như trái tim của người mẹ nghèo đang rung lên vì đớn đau, xót xa. Tình cảm của người mẹ bao hàm sự so sánh giữa người với mình và con cái trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng cho con. Sự so sánh đấy ko chỉ làm nổi trội sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình nhưng dường như còn chứa đựng sự trách móc của bà đối với chính bản thân mình. Một nỗi hờn tủi cho chính mình! Đó cũng là biểu lộ của nỗi thống khổ trong lòng bà. Nhưng tất cả đều là biểu lộ của tấm lòng nhân ái.
Nỗi xót xa còn trình bày ở sự quan tâm của bà đối với các con: “Ko biết chúng nó có nuôi nhau được qua cơn đói này ko?” Vừa tủi thân, vừa thương con khiến “hai dòng nước mắt lưng tròng”. Bà lão kìm nén xúc cảm, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào trái tim vốn đã chất chứa bao thống khổ của một kiếp lầm than. Nước mắt vẫn lặng thầm chảy ra từ đôi mắt đục ngầu của người mẹ già tội nghiệp. Đoạn văn ko chỉ là những câu tường thuật thuần tuý nhưng mỗi câu đều tràn đầy niềm ngậm ngùi của tác giả.
Diễn biến của câu chuyện đã tới hồi cao trào. Sự sắc sảo, tinh tế trong nghệ thuật mô tả tâm lí nhân vật của Kim Lân được trình bày khá đậm nét. Cả ba nhân vật đều có chung tâm trạng căng thẳng. Tràng và “vợ nhặt” chờ mẹ già lên tiếng. Lúc bà cụ Tứ hiểu ra chuyện, nỗi xót xa của bà lão “khẽ thở dài” vì bà muốn giấu đi nỗi buồn lo của riêng mình. Bà lão tạm dứt ra khỏi tâm trạng suy tư túc trực để nhìn người vợ nhặt, để “ngắm người phụ nữ” lúc nàng “cúi mặt xuống, tay sờ soạng vạt áo rách”. Bà cụ ko chỉ nhìn con dâu bằng con mắt nhưng còn hướng về con dâu bằng cả tấm lòng. Vì vậy, bà cụ nghĩ: “Người ta nhưng gặp bước gian nan đói khổ này thì chỉ tới con mình thôi, con mình mới có vợ…”. Trong suy nghĩ đó của người mẹ hướng tới hai nhân vật “người khác” và “con mình”. “Người” trở thành ân nhân và “con tôi” là kẻ mang ơn. Điều đó đã chứng tỏ rằng người mẹ già ko hề khinh thường người vợ nhặt nhưng còn thông cảm, kính trọng dù cô là một người phụ nữ rách rưới, nghèo túng, ko gia đình. Từ tấm lòng cho người vợ nhặt, bà cụ nghĩ tới phận sự làm mẹ, tiếp tục dằn vặt “ko thể chăm sóc con…”. Bà tin tưởng và hy vọng số phận tùy duyên: “May sao qua được đoạn này, đàn ông cũng có vợ, yên bề thất gia, chẳng may bà chết thì cũng yên lòng . Tình cảnh thật bi đát! Dù lo lắng, dù đau buồn nhưng dường như người mẹ đã chấp nhận “cô dâu mới” từ lúc nào ko hay. Sau lúc “khẽ hắng giọng”, bà lão “nhẹ nhõm” nói với “cô dâu mới”: “Được, được, thế thì phải duyên với nhau, mẹ cũng vui lòng…”. Mẹ vui vẻ nhận lời tự nguyện. Hai chữ “mừng lòng” nhưng bà cụ nói với các con thật giản dị và chân tình biết bao! Những lời nói giản dị đấy đã đem lại niềm xúc động và an tâm cho người vợ nhặt nghèo. Việc bà cụ Tứ nhận lời khiến ông Tràng “thở phào nhẹ nhõm, lồng ngực nhẹ thênh”.
Người mẹ nghèo nhân hậu thấu hiểu hoàn cảnh và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ bỗng chốc trở thành “con dâu” của bà. Tiếng nói độc thoại nội tâm ở đoạn văn này một lần nữa mô tả tinh tế tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ Tứ. Xúc cảm đấy như những đợt sóng cuộn lên trong lòng mẹ khiến người đọc ko khỏi ngùi ngùi. Ôi chao, tội nghiệp mẹ!. Tình mến thương con và ý thức trách nhiệm của một người mẹ khiến người mẹ lo lắng về việc cưới con bằng tất cả sức lực của mình.
Lúc đón “nàng dâu mới”, bà Tứ tiếp tục tâm tư, từ tốn dặn dò các con: “Nhà mình nghèo, vợ chồng mày bảo nhau làm ăn, rồi may ra ông trời cho. Biết sao được, người nào giàu ba đời, người nào khó ba đời, trong tâm tư của bà, có một lời thú nhận rất thiệt thà rằng “nhà ta nghèo”, từ lẽ đó, người mẹ đã nhắc nhở các con rằng, “Vợ chồng bảo nhau làm ăn”, dù nhắc nhở tương tự nhưng bà cũng động viên các con bằng câu nói rất thân thuộc trong dân gian: “Người nào giàu ba họ, người nào khó ba đời?”. trình bày sự sáng sủa của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh khó khăn, hơn thế nữa bà lão còn truyền cho người con niềm tin vào tương lai, là nguồn động viên quý giá giúp người con vượt qua thời kỳ khó khăn này.
Tâm trạng bà cụ Tứ vừa buồn, vừa vui, vừa lo. Trong lòng bà lão luôn bị ám ảnh bởi cái nghèo, cái khổ khiến bà lão “ngước mắt ra bóng tối che mắt bà. Xa xa, dòng sông trắng uốn khúc trên cánh đồng tối. Những ngôi nhà người chết trong gió cháy. Bà cụ thở dài thườn thượt.” Trong lòng bà cũng bị ám ảnh bởi nỗi xấu số về thân phận của mình. Vì vậy, trong kí ức của bà cụ “nghĩ tới ông già, nghĩ tới đứa con gái út. Bà lão nghĩ tới cuộc đời dài dằng dặc của mình”. Tất cả hiện lên như một cuốn phim dài vô tận, như một tấn thảm kịch của cuộc đời bà. Từ những xúc cảm đấy, nỗi băn khoăn lại một lần nữa xuất hiện trong bà, bà lo lắng cho những đứa con của mình: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau rồi liệu cuộc sống của chúng có khá hơn bố mẹ trước đây ko?…”. Dù lo lắng nhưng bà vẫn phấn đấu lại gần con dâu với lời mời thân tình: “Ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây kẻo mỏi chân”. Lời mời đó đã rút ngắn khoảng cách giữa mẹ và “con dâu”, đồng thời cũng xoa dịu được ít nhiều cho “vợ nhặt”. Lời mời của mẹ trình bày sự yêu quý và chấp nhận “cô dâu mới” của mẹ. Nổi trội nhất vẫn là tấm lòng thương xót của bà cụ Tứ với cô con dâu mới: “Bà lão nhìn người nhưng lòng đầy thương hại. Nàng nay đã là con dâu trong nhà”. Bà cụ tiếp tục tâm tư với người vợ nhặt bằng những lời lẽ thân tình: “Làm được vài mâm cỗ cũng đúng, nhưng nhà nghèo. Năm nay, nhà đói. Hiện giờ chúng nó thành hôn, bà cũng thấy đau xót … “. Qua lời bà lão chứng tỏ bà là người hiểu đời, hiểu người. Bà hiểu rằng cưới vợ cho con cái thì phải có vài mâm cỗ trước để cúng tổ tiên, ông bà, sau đó mới mời thôn ấp. Bà cũng hiểu lòng người, hiểu lòng bao dung của mọi người, họ sẽ thông cảm cho sự nghèo túng của Bà nhưng ko chấp nhặt, tính toán. Bà cũng hiểu đạo lý tạo nên sự gắn bó giữa vợ chồng chính là sự hòa thuận. Tới đây, bà cụ “ko nói được nữa, nước mắt cứ chảy dài”. Những giọt nước mắt của bà Tứ tràn đầy tình thương con. Những giọt nước mắt của mẹ là biểu lộ tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Nó quý giá hơn rất nhiều so với những thứ tầm thường nhưng mẹ dành cho con.
Tâm trạng của Tứ chiều hôm trước là sự lo lắng, vui, buồn lộn lạo, nhưng sáng hôm sau, tâm trạng của bà luôn ngập tràn thú vui. Thú vui đấy được trình bày trên khuôn mặt người mẹ: “mẹ nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn mọi lúc, khuôn mặt ủ rũ, ủ rũ của mẹ bừng sáng lên”. Thú vui còn trình bày qua hành động: “ quét nhà” của bà với suy nghĩ “sắp xếp nhà cửa cho khang trang, ngăn nắp thì cuộc sống của họ mới có thể khác đi, việc làm ăn mới có dịp khấm khá hơn”. Bà ko thể ko hạnh phúc lúc đàn ông mình thành hôn. Bà cũng trút bỏ được nỗi băn khoăn canh cánh trong lòng từ lâu, bữa cơm trước hết của ba mẹ con, dù chỉ là “rau chuối thái, đĩa muối ăn với cháo” nhưng “tất cả đều nói chuyện vui vẻ. Câu chuyện người mẹ già kể với con trong bữa cơm trước hết sau ngày cưới, tuy vẫn là chuyện làm ăn, gia đình nhưng trong câu chuyện của bà ko còn quá khứ nhưng chỉ còn tương lai. Câu chuyện của bà thật đơn giản! Đó là chuyện sắm gà, nuôi gà, có một đàn gà con nhưng mẹ nói với Tràng: “Tràng ơi, có tiền thì sắm một cặp gà, mẹ thấy đầu bếp làm chuồng gà ở đâu tiện lắm. , ngoảnh đi ngoảnh lại, có một đàn gà con ngay đó…”. Chính câu chuyện của mẹ đã khiến cuộc sống vui vẻ và ấm áp hơn rất nhiều. Tuy nhiên, bữa ăn ngày càng trở thành nghèo nàn khiến “chuyện bữa cơm vui vẻ chợt tắt. Nồi cháo loãng, mỗi người được hai bát lưng”. Tuy nhiên, bà lão “ vào bếp bưng ra một nồi khói bốc ngun ngút” và bà lão tấm tắc khen “chè đây, ngon quá”. Bà cụ dường như đang cố xua đi bầu ko khí u ám, cố quên đi hoàn cảnh khốn cùng bằng một thái độ vui vẻ. Bên trong vẻ tươi tỉnh đấy là một trái tim người mẹ đang thổn thức lo lắng. Bà lão “thiết đãi” cô dâu mới món đặc sản “cháo” nấu bằng cám tấm tắc khen “ngon ” và so sánh “xóm mình còn ko có cám nhưng ăn”. Qua đó, bà đã động viên các con, để các con có thêm sức mạnh ý thức vượt qua khó khăn, vất vả này. Cụ thể này khiến chúng tôi cũng phải rơi nước mắt trước tình cảm đáng quý và sự chân tình của bà. Kết thúc đoạn văn là giọt nước mắt của người mẹ, còn bà lão thì “mau ngoảnh mặt đi. Bà lão ko dám để giọt nước mắt rơi. Bà phấn đấu xua đi nỗi ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại và truyền niềm tin, thú vui cho các con. Trong tấm thân gầy guộc, héo mòn vì đói khát đấy vẫn bừng lên một ý chí sống mãnh liệt.
Qua truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã xây dựng một hình ảnh chân thực và cảm động về người mẹ nghèo hết lòng vì con. Ngòi bút tinh tế, sắc sảo của tác giả đi sâu phân tích diễn biến tâm lý phức tạp của bà cụ Tứ và trình bày điều đó qua từng lời nói, ánh mắt, trong suy nghĩ, hành động và cả sự trằn trọc cho tương lai của các con. Phải là một người có đời sống phong phú, hiểu và thông cảm, mến thương và tôn trọng những người nghèo khổ thì Kim Lân mới có thể diễn tả sống động và tài tình tới thế.
3. Bài mẫu 2 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Kim Lân là một trong những nhà văn chuyên viết về người nông dân. Những câu chuyện của ông luôn đơn giản và thẳng thắn như hình ảnh của chính anh. “Vợ nhặt” là tác phẩm của ông lấy bối cảnh những năm đói kém 1945, câu chuyện đầy thương cảm về những kiếp người nghèo khổ đùm bọc nhau trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”. Và sáng ngời trong cảnh đói khổ đấy là tình người dành cho nhau. Hình ảnh bà cụ Tứ – người mẹ già nghèo khổ với những xúc cảm, tâm trạng phức tạp lúc chứng kiến đứa đàn ông duy nhất “nhặt vợ” đã để lại nhiều ấn tượng thâm thúy trong lòng người đọc.
Nhân vật chính trong tác phẩm Vợ Nhặt là anh chàng tên Tràng, sống ở xóm trọ. Giữa những năm tháng đói khát, anh kéo xe thồ thuê kiếm sống và một lần, anh bắt gặp một người phụ nữ nghèo ngồi bên vệ đường để “chờ nhặt hột rơi vãi”, chị đẩy cùng anh xe bò kéo sau vài câu đùa vu vơ. Lần thứ hai anh gặp lại cô là lúc cô đói tới mức “gầy quá” và anh mời cô ăn bánh. Chỉ với bốn bát bánh, cô chấp nhận theo anh về làm vợ.
Có thể nói, tình huống truyện nhưng Kim Lân dựng lên là vô cùng lạ mắt và “không tiền khoáng hậu” trong nền văn học Việt Nam. Qua đó, ta chợt động lòng trước sự mỏng manh, nghèo túng của con người trong nạn đói, nhưng hơn hết là niềm xúc động mãnh liệt trước tình mến thương, đùm bọc lẫn nhau của những người dân nghèo giữa đói khát. Trong bức tranh ấm áp tình người ta còn bắt gặp hình ảnh người mẹ già với tấm lòng hết lòng mến thương con và người, đó là bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ – mẹ Tràng hiện lên chỉ qua vài dòng giới thiệu ngắn gọn của tác giả. Đó là một bà già, nghèo túng, cư dân trong xóm. Dáng đi của bà rất “luộm thuộm”, chậm rãi và “vừa đi vừa lẩm nhẩm điều gì đó trong mồm”. Bà xuất hiện với dáng vẻ của một người phụ nữ đầy vất vả và thống khổ. Bà có một cậu đàn ông nhưng chưa bao giờ nghĩ tới chuyện lấy anh, vì nhà nghèo quá, đói quá, người nào nỡ gả vào một ngôi nhà chỉ là “nhà hoang đứng co ro” để tiêu xài ko đủ? Vậy nhưng giữa lúc đói kém khốc liệt nhất, Tràng lại đem về một “người vợ”, người phụ nữ nhưng Tràng “nhặt được” lúc đi làm thuê. Ở cái thời buổi tới cái thân cũng ko lo nổi như thế này, lúc Tràng lấy vợ, bà cụ sẽ phản ứng ra sao? Bà sẽ chấp nhận làm dâu “chưa cưới” hay trách đàn ông đã “qua mặt”, “lấy lại nợ đời”?
Lúc thấy cậu đàn ông “dũng cảm” đón từ đầu ngõ, phản ứng trước hết của bà là bất thần. Một sự “bất thần” dâng lên trong lòng bà cụ, bà ko hiểu sao hôm nay đàn ông mình lại có thái độ lạ lùng tương tự! Và sự ngạc nhiên của bà càng tột độ lúc nhìn vào trong nhà, thấy một người phụ nữ khác đang “đứng đầu giường con bà” và “chào bà bằng u”. Bà lão “ngừng lại”, vẻ lo lắng dường như làm đôi mắt già “nhòe”, bà “chớp” mắt, cố “nhìn kỹ” người phụ nữ. Sự ngạc nhiên và bối rối bao trùm lấy bà lão tội nghiệp, bà vô cùng ngạc nhiên, ko hiểu chuyện gì cho tới lúc đàn ông lên tiếng.
Lúc đàn ông giảng giải mọi chuyện, bà bỗng “cúi đầu yên lặng”. Trong lòng mẹ là gì? Kim Lân đã khôn khéo dẫn dắt tâm trạng của người mẹ già đấy, khôn khéo để người đọc thấy được những thay đổi đang cuộn trào trong lòng người phụ nữ đấy. Bà cúi đầu yên lặng, nhưng trong lòng chợt hiểu, “bà già hiểu rồi”. Bà hiểu rằng đàn ông bà giờ đã có gia đình, có người khác bầu bạn, nhưng nếu lấy vợ giữa lúc túng quẫn nhất của cuộc đời thì sao?
Có nhẽ, người phụ nữ đáng thương đấy đã phải khóc nhiều lần trong đời, nhưng giọt nước mắt lần này lại khác. Đó là tình thương, là sự xót xa cho Tràng, từ “giọt nước mắt lưng tròng”. Giọt nước mắt đấy “vừa xót xa, vừa thương cho số phận đứa con của mẹ”. Tuy nhiên, bà cũng hiểu rằng nhà mình nghèo, con bà lại xấu xí, nay có bạn đồng hành, cô hạnh phúc biết bao! Cô vừa tiếc nhưng cũng vừa mừng cho con.
Mẹ càng thương con bao nhiêu thì mẹ càng thương chính mình bấy nhiêu. Bà tiếc thương cho số phận đáng thương của mình cả đời. “Ôi chao, người ta cưới gả con cái là lúc trong nhà ăn nên làm ra, còn mình…” Sự yên lặng trong dòng suy nghĩ của bà là sự tủi thân. Cả đời bà vất vả nhưng ko làm được gì cho con, thấy thương con vì ko lo được lấy chồng. Tới nay, lúc các con đã có vợ, bà vừa mừng vừa buồn.
Thương con, thương mình, rồi lại “ngậm ngùi nhìn người phụ nữ đấy”, bà chợt thấy thương người phụ nữ này. Người phụ nữ tội nghiệp đáng thương đấy đã phải đi tới “bước khó khăn, đói khổ này mới bám lấy con mình”. Bà thông cảm cho cô đấy, thông cảm cho sự cực chẳng đã của cô đấy, trái tim Bà đấy “đầy thương hại” cho người phụ nữ trước mặt.
Chỉ thế thôi nhưng người đọc có thể thấy rõ tấm lòng của người mẹ già đấy. Đó là tấm lòng của một người phụ nữ rất đỗi thương con và thương những người đồng hoàn cảnh như mình. Bà cụ Tứ ko chỉ thông cảm nhưng còn thấu hiểu nỗi lòng của người phụ nữ đáng thương, hiểu để chấp nhận nàng về làm dâu nhà mình. Sau cuối, bà cảm thấy sung sướng, hạnh phúc vì đứa con xấu xí của mình giờ đã có bạn đồng hành, bà mở lòng với nàng dâu mới “thôi thì hai đứa có duyên nhưng sống với nhau thì cũng vui”. Và bà cũng chỉ mong “làm được mấy mâm cũng được” để mừng con dâu mới vào nhà, nhưng giờ giữa cảnh đói khát này, bà chỉ mong “con bà hạnh phúc”. Đó là tấm lòng của người mẹ, tấm lòng của người phụ nữ đầy nhân ái!
Nhưng cùng với thú vui có dâu mới là nỗi lo lắng, tủi hờn tới tột cùng. Bởi Tràng và Thị tới với nhau trong hoàn cảnh “kẻ chết như ngả rạ”, những đứa con còn sống “xanh như xám”.
Họ tới với nhau là hạnh phúc, nhưng cũng là “nhận nợ đời”. Từ lúc biết họ lấy nhau, bà cụ rưng rưng nước mắt tự hỏi: “Ko biết có nuôi được nhau qua cơn đói này ko?”, những năm tháng đấy tưởng hình như là một thú vui tuyệt vời, cũng xen lẫn với những tiếng thở dài, xen lẫn với bóng tối của sự chết chóc, của tiếng quạ kêu: “bà lão nghĩ cho cuộc đời dài dằng dặc của mình. Nếu vợ chồng chúng nó lấy nhau liệu cuộc sống của họ có tốt hơn bố mẹ trước ko?”.
Tâm trạng bà cụ Tứ thay đổi lúc biết Tràng “nhặt thị” về làm vợ. Nó chuyển từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, từ ngạc nhiên tới thương cảm, từ hạnh phúc tới lo lắng vô bờ bến. Tuy nhiên, ta vẫn thấy được tấm lòng mến thương con của một người mẹ, sự đồng cảm và thấu hiểu của một người phụ nữ từng trải với một người phụ nữ xa lạ khác, và cả sự kính trọng của một người mẹ chồng. với con dâu mới trong nhà. Có dâu mới trong hoàn cảnh này là phải chia miếng ăn, sẻ đời nhưng bà lão vẫn sẵn sàng chấp nhận. Bà cụ Tứ đúng là người phụ nữ giàu đức hi sinh và tấm lòng nhân ái!
Tâm trạng của bà thay đổi ko chỉ trong buổi tối hôm đó nhưng cả sáng hôm sau lúc cô trở thành con dâu của bà. Nếu như trước đây, gương mặt bà “quạnh quẽ, u ám” thì hôm nay, gương mặt bà “nhẹ nhõm, khác hẳn ngày thường”, “sáng rỡ hơn hẳn”. Phải chăng một tia kỳ vọng sống mới đã nhen nhóm trong lòng bà lão? Một sự nhẹ nhõm, hạnh phúc, một niềm tin tràn đầy vào tương lai phía trước?
Trong bữa cơm đón dâu mới chỉ có “mớ rau chuối thái rối, đĩa muối ăn với cháo” nhưng cả gia đình ba người “ăn rất ngon”. Lễ mừng dâu mới thê thảm biết bao, nhưng trong lòng mỗi người lại tràn trề thú vui mới và một niềm tin vào cuộc sống. Bà Tứ trước kia ủ rũ tương tự, hiện thời sắc mặt rất xa lạ. Bà kể “hết chuyện vui, tính chuyện vui tính sau”. Đó là trái tim sáng sủa, yêu đời, ham sống của người mẹ già muốn truyền lại cho con cháu niềm tin về một cuộc sống mới hạnh phúc, đủ đầy hơn.
Bà cụ Tứ là nhân vật tuy chỉ xuất hiện ít trong tác phẩm nhưng lại để lại ấn tượng thâm thúy trong lòng mỗi chúng ta. Qua từng diễn biến tâm trạng của bà, ta thấy được tấm lòng của người mẹ già trong đói khát vẫn mến thương con, luôn truyền cho con một niềm sáng sủa sống, niềm tin yêu vào cuộc sống. Và ta còn bắt gặp hình ảnh người phụ nữ thôn quê nghèo nhưng giàu lòng nhân ái sẵn sàng san sẻ “nguồn sống” ít ỏi của mình với người khác trong thời kỳ đói khổ nhất của cuộc đời.
Có thể nói, Kim Lân đã diễn vô cùng thành công lúc mô tả diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ. Từng thời kỳ chuyển biến tâm lí phức tạp của bà cụ đấy được nhà văn mô tả rất chân thực và hợp pháp. Hình như tác giả đã đặt mình vào nhân vật đấy để cảm thu được những rung động thâm thúy nhất trong lòng người mẹ đấy!
Vợ Nhặt là tác phẩm hiện thực xuất sắc lúc phản ánh số phận và vẻ đẹp nhân văn đáng quý của những người nông dân trước Cách mệnh tháng Tám. Nạn đói kinh khủng đã vắt kiệt cuộc sống của con người nhưng đâu đó bên trong những con người như cụ Tứ, Tràng, người vợ nhặt vẫn còn một vẻ đẹp tiềm tàng đáng trân trọng, đó là vẻ đẹp của tình yêu, của sức sống mãnh liệt.
4. Bài mẫu 3 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Ko phải là nhân vật chính, xuất hiện lại ở cuối tác phẩm nhưng bà cụ Tứ – mẹ Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm thêm phần thâm thúy. Với tình cảnh Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói kém, Kim Lân muốn khắc họa số phận bi thương của người nông dân trước Cách mệnh tháng Tám, trình bày sự thông cảm, san sẻ trước khát vọng hạnh phúc. của những số phận xấu số đó.
Đúng trong hình ảnh và thật trong từng cụ thể, Kim Lân dường như ko kể nhưng dẫn ta tới chỗ bà cụ Tứ. Khởi đầu với: “vừa đi vào ngõ vừa lầm bầm điều gì đó”. Ta gặp lại dáng gầy gò, lum khum của người phụ nữ thân thuộc trong đời. Lẻ loi, chậm rãi sau sự “bất thần” trước sự tiếp đón khác thường của con, bà bước vào nhà. Lúc nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường của con mình, cô đã rất ngạc nhiên.
Hàng loạt câu hỏi hiện lên trong đầu óc già nua của bà. “Người phụ nữ nào lại đứng ở đầu giường của đàn ông mình tương tự? Ko phải cái đục. Đó là người nào? Sao phải chào mình bằng u?” Đúng vậy, bà ko ngờ rằng giữa năm nghèo túng, lại có người lấy con bà. Đọc những dòng này, tôi như thấy lòng người mẹ yếu ớt đang rung lên vì đớn đau, ăn năn. Việc quan trọng của đời mình, lẽ ra phải “làm vài mâm cơm”, nhưng “gia đình nghèo quá” nên bà chỉ nghĩ trong đầu, mình ko làm được.
Bà cụ thương đàn ông, hối hận rồi lại thương con dâu. “Người ta phải trải qua bước nghèo túng này, mới lấy con mình nhưng con mình mới có vợ…” Vừa mừng vừa lo, bà trằn trọc trước nỗi lo rất chính đáng của những người từng trải qua cuộc đời vất vả, thống khổ. Cố nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên đàn ông tin tưởng vào tương lai: “Vợ chồng bảo nhau làm ăn người nào giàu ba họ người nào khó ba đời? ” Bà nói với con dâu bằng giọng của một người từng trải – vừa lo vừa thương.
Từ ngạc nhiên tới khoảnh khắc lặng người “thấu hiểu ra bao điều”, từ những giọt nước mắt tội nghiệp, xót xa cho cô con dâu tới nỗi lo “ko biết nuôi nhau qua cơn đói” tới niềm hoan hỉ, niềm tin vào tương lai…, tất cả đan xen, hiện lên dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, trình bày tài tình trong từng suy nghĩ, hành động, lời nói. Thật ko lẫn vào đâu được cách nói vừa nghĩ vừa bối rối vừa nhân hậu của một bà mẹ già thôn quê.
Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa ghi lại một cách khách quan. Đặt nhân vật vào một hoàn cảnh ko gian và thời kì nhất mực, Kim Lân đã trình bày thâm thúy tâm trạng của nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi thấy “mùi đốt mùn của những ngôi nhà có người chết” nhưng “nghĩ tới ông già, nghĩ tới đứa con gái út”, tới “đời khổ của mình” rồi lại lo cho tương lai của con cái: “liệu chúng có tốt hơn cha mẹ của họ trước đây ko?”.
Nghệ thuật “biện chứng của tâm hồn” đã trình bày một cách tài tình trong từng biến thái tinh tế và phong phú của tâm lí người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu và trân trọng đặc thù, phải có một vốn sống phong phú tới mức nào mới có thể diễn tả chân thực và tài tình tới thế. Vợ nhặt ko còn là những trang văn, nhưng là những trang đời – những trang đời đẫm nước mắt đau thương, xót xa, lo lắng cho tương lai và rạng rỡ trong lòng người mẹ nghèo. Hiện thực nhưng cũng rất cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ ko chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tiềm thức nhưng người con vô cùng xúc động trước tấm lòng, trước tình mến thương tha thiết của người mẹ.
Lòng người đọc cũng dâng lên bao nỗi xót xa… Thú vui của bà lão tội nghiệp – thú vui ko thể cất cánh. Bởi lẽ, còn bát cháo cám, vẫn còn tiếng trống đập khiến thú vui ko trọn vẹn… “Bà ko dám để con dâu thấy mình khóc” nhưng người đọc có thể thấy rõ những giọt nước mắt nước. Trong thâm tâm, bà có thể thấy rõ những giọt nước mắt của Kim Lân lúc viết những dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim Lân đã để trái tim mình đập cùng nhịp với trái tim người mẹ nông dân nghèo…
Qua “Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo khổ suốt đời. Sau bà cụ Tứ, ta nhấp nhoáng thấy Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần sống hết lòng vì người thân.
5. Bài mẫu 4 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Thành công của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân trước hết là việc khắc họa đậm nét các nhân vật tiêu biểu: Tràng, bà cụ Tứ, người “vợ nhặt”. Tác phẩm là khúc ca thấm đẫm tình người, trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, con người vẫn cõng nhau, dắt nhau tiến về phía trước. Ko phải là con người Tràng hay “cô vợ nhặt”, nhưng chính hình ảnh người mẹ và bà cụ Tứ mới để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc về tấm lòng người mẹ, tình người, tình mến thương trong cuộc sống.
Kim Lân là nhà văn xuất thân từ từng lớp bình dân. Mong ước trở thành họa sĩ nhưng vì nhà nghèo ko có tiền ăn học nên anh tới với văn học như một cơ duyên. Chính cuộc sống nghèo khổ đã giúp Kim Lân có cái nhìn đầy nước mắt và đồng cảm với những mảnh đời nhọc nhằn. Ông đã xây dựng thành người lao động vật mẹ con cụ Tứ, một người mẹ nghèo trên bối cảnh nạn đói kinh khủng năm Đinh Dậu. Khó có thể tưởng tượng truyện ngắn Vợ nhặt lại ko có nhân vật người mẹ này.
Trước hết, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người phụ nữ tuy nghèo nhưng dù đã cao tuổi vẫn phải bươn chải kiếm sống. Ta có thể nhìn thấy điều này qua một vài cụ thể rất nhỏ: “Từ lùm tre, bà cụ đi vào. Tính nó vẫn thế, vừa đi vừa lầm bầm gì đó trong mồm…”. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc có cảm giác như một bà lão có ngoại hình nhỏ nhỏ, ko còn nhanh nhẹn, những bước chân chậm rãi, vất vả bước ra từ trong bóng tối. Giữa ko gian xóm trọ tồi tàn, người người “tối tăm” vì đói khát, ko khí “khốc lên mùi ẩm thấp của rác thải và mùi xác chết đói” cộng hưởng với tiếng “lẩm thiên bẩm toán” khiến chúng tôi sợ hãi. Còn gì có thể tính toán được trong cảnh “ko còn gì để mất” này? Vì thế, bà cụ Tứ đã bước tới để mang cả “bầu trời” thê lương vào lòng.
Tiếp đó, Kim Lân còn xây dựng nhân vật bà cụ Tứ giàu lòng mến thương, đức hi sinh, luôn mong ước có được cuộc sống hạnh phúc đủ đầy. Bà Tứ là một người mẹ luôn biết cách thấu hiểu cho đàn ông – cu Tràng, hết lòng mong con hạnh phúc. Điều này được trình bày rõ qua diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ xuyên suốt câu chuyện. Lúc đầu thấy anh Tràng chở một phụ nữ về, cụ Tứ “ú ớ”, “ngỡ ngàng”. Rồi bất thần hơn nữa, lúc người phụ nữ kia “chào bà bằng u”. Đã sống hơn nửa đời người, bà Tứ dường như dần hiểu ra mọi chuyện, hai mắt híp lại. Một câu hỏi lớn hiện lên trong đầu bà Tứ: giữa nạn đói kinh khủng này, ăn ko đủ no thì làm sao sống nổi? Bà hiểu tất cả, hiểu khát khao có một mái ấm gia đình nhưng thực tiễn phũ phàng ko cho Tràng thời cơ có một đám cưới tươm tất như bao người. Của hồi môn là vài bát bánh đúc, vợ là người phụ nữ “nhặt” được, thế nhưng, sau một hồi đắn đo, bà Tứ cũng “vui lòng” nhận. Đó chẳng phải là minh chứng cho khát vọng hạnh phúc gia đình của bà cụ hay sao? Bà Tứ ko chỉ thương con nhưng còn là người giàu lòng nhân ái, thương người cùng hoàn cảnh. Bà chấp nhận một người phụ nữ xa lạ làm con dâu dù “ko biết các con có nuôi được nhau ko”.
Bằng tài năng và sự đồng cảm thâm thúy, Kim Lân đã dựng nên “hình ảnh chân thực và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong nạn đói kinh khủng năm 1945”. Bằng tài năng, cùng tình cảm thiết tha với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa gây xúc động, day dứt với người đọc. Chính hành động, lời nói, nụ cười trên gương mặt u ám của bà đã làm bừng sáng câu chuyện sau bóng tối, tuyệt vọng của cuộc sống nghèo túng. Ý nghĩa nhân văn nhưng nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù bị đặt vào hoàn cảnh trớ trêu, kế cận cái chết nhưng vẫn ko đánh mất đi trị giá ý thức và phẩm chất tốt đẹp: lòng mến thương con cái, con người và thái độ sáng sủa hi vọng vào một tương lai tươi sáng dù chỉ là một tia hi vọng mỏng manh. Kim Lân đã phát hiện và trình bày thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.
Bạn thấy bài viết Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt bên dưới để bangtuanhoan.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website bangtuanhoan.edu.vn
Phân mục: Kiến thức chung
Nguồn: bangtuanhoan.edu.vn
[rule_{ruleNumber}]
[box type=”note” align=”” class=”” border-radius: 5px; -webkit-border-radius: 5px; border: 2px solid #1c4a97; padding: 10px 20px;”>
Bạn đang xem: Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt tại bangtuanhoan.edu.vn
Tác giả tác phẩm? Dàn ý phân tích hình ảnh bà cụ Tứ? Bài mẫu 1 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ? Bài mẫu 2 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ? Bài mẫu 3 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ?
Một trong số những tác phẩm văn học có trị giá hiện thực cao đó là tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Mỗi nhân vật lại là một nét vẽ chân thực của nhà văn Kim Lân về đời sống thực tại. Chính vì lẽ đó, hôm nay chúng tôi muốn gửi tới độc giả những bài văn mẫu về phân tích hình ảnh nhân vật bà Cụ Tứ để giúp các em phục vụ cho ôn tập và có một kì thi hiệu quả.
1. Dàn ý phân tích hình ảnh bà cụ Tứ:
Mở bài: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
Thân bài:
Nói chung về bà cụ Tứ:
Là một người nông dân nghèo khổ, cũng là nạn nhân của nạn đói thảm hại năm 1945
Cuộc sống khổ cực, dáng đi “lụm cụm”, “vừa đi vừa lẩm thiên bẩm toán”.
Diễn biến tâm trạng:
Cái bất thần lúc thấy đàn ông nóng tính, cái “bất thần” lo lắng vì ko hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Nhìn thấy người phụ nữ trong nhà, bà lại càng ngạc nhiên hơn và thắc mắc “lạ…người nào vậy?”
Sau lúc nghe Tràng giảng giải, bà “câm nín”:
Sáng hôm sau:
Gương mặt bà “quạnh quẽ hiu hắt”, hôm nay “nhẹ nhõm, khác hẳn ngày thường”, “nhẹ người lên”: bà vui vẻ, phấn khởi.Bữa cơm thật thảm hại nhưng cả nhà đều ăn ngon lành.Bà lão nói “có hỷ sự, vạn sự mừng lai”: sự sáng sủa, yêu đời.
Nghệ thuật khắc họa nhân vật.
Kết bài: Nhận định lại trị giá nội dung và trị giá nghệ thuật.
2. Bài mẫu 1 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối trước nạn đói kinh khủng năm 1945. Kim Lân ko mô tả hiện thực tàn khốc của nạn đói lúc bấy giờ nhưng tập trung trình bày vẻ đẹp của nạn đói, vẻ đẹp ý thức ẩn sau vẻ ngoài đói khát của người nghèo. Trong cảnh đấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và kỳ vọng vào một tương lai tươi sáng. Trong “Vợ Nhặt” xuất hiện ba nhân vật: Tràng, cụ Tứ và người vợ nhặt, bà cụ Tứ – mẹ Tràng càng gây được thiện cảm với người đọc bởi tấm lòng nhân hậu, vị tha, đức hi sinh cao cả của bà.
Kim Lân để bà cụ Tứ xuất hiện giữa tác phẩm nhưng bà cụ Tứ lại trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm. Lúc mô tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thực tới từng hình ảnh, cụ thể. Bà cụ Tứ hiện lên trong vai một người mẹ có số phận xấu số vì chồng mất sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, chỉ còn lại một người đàn ông làm nghề đánh xe bò. Vì vậy, hai mẹ con sống trong căn nhà xập xệ, chui rúc trong xóm và người đàn ông có nguy cơ mất vợ. Nỗi thống khổ, tủi nhục của cuộc đời đè nặng lên thân phận tạo nên tính cách của bà. Chân dung bà cụ Tứ được tác giả dần dần giới thiệu. Khởi đầu là “tiếng người hắng giọng ho sặc sụa”, rồi một bà lão có dáng vẻ “cười tươi” từ đầu ngõ “vừa đi vừa lầm bầm gì đó trong mồm”. Tính từ “lum khum” rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc tưởng tượng ra phết người gầy guộc, ngoằn ngoèo của người mẹ già vì gánh nặng cuộc đời, cảnh nghèo túng. Và chính sự nghèo túng cũng khiến gương mặt bà hiện lên một vẻ “u ám”. Qua việc mô tả ngoại hình của bà cụ Tứ, ta thấy được đó là một người mẹ có cuộc đời xấu số, khổ cực.
Chiều hôm trước, bà cụ Tứ đang trong tâm trạng ngạc nhiên lúc từ ngoài ngõ bước vào, thấy Tràng có thái độ khác thường “vui như con trẻ” và “chạy ra đón con”, bà cụ theo đàn ông vào trong nhà với tâm trạng “ngỡ ngàng”. Đó là biểu lộ của sự lo lắng, bồn chồn vì ko biết điều gì đang hy vọng mình ở nhà. Lúc ra tới giữa sân, nhìn thấy người phụ nữ, bà lão ngạc nhiên “ngừng lại”. Điều đó cho thấy sự ngạc nhiên trong bà ngày càng nhiều, ngạc nhiên sau lớn hơn ngạc nhiên trước. Tác giả đã sử dụng tiếng nói độc thoại nội tâm để diễn tả nỗi băn khoăn, thắc mắc của bà lão lúc này. Một loạt câu hỏi hiện lên trong đầu bà già: “quái, sao lại có một người phụ nữ trong đó? Người phụ nữ nào đang đứng đầu giường đàn ông mình? Vì sao lại chào tôi bằng u? Người nào vậy? ” Hàng loạt câu hỏi là sự lục lọi trong đầu bà để tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Nhưng bà lão vẫn chưa tìm ra câu trả lời nên đổ lỗi cho đôi mắt của mình, ko tin vào mắt mình “bà lão chớp chớp mắt cho đỡ xốn xang vì bỗng bà lão nghĩ con mắt của mình bị lác”. Bà cụ “lại nhìn kỹ người phụ nữ, vẫn ko nhìn thấy người nào” nên quay sang hỏi người con với sự ngạc nhiên khó hiểu của chính mình. Lúc người phụ nữ nhìn thấy bà lão về nhà và chào “u”, ngay cả lời chào đó – một lời chào thân tình cũng ko thể làm cho bà hiểu được. Bà còn đang băn khoăn, thắc mắc rồi đoán già đoán non, lại thêm một câu hỏi: “Chào u?”. Mãi tới lúc Tràng giới thiệu và giảng giải “đây là nhà tôi” và “chúng tôi phải duyên phải số nhưng sống với nhau” thì bà lão mới mở màn hiểu ra. Lúc hiểu ra, bà lão “cúi đầu yên lặng”. Tư thế “lặng lẽ cúi đầu” của bà cụ Tứ chất chứa biết bao tâm tư, tình cảm, xúc cảm khó diễn tả thành lời. Hình như qua tư thế đấy, người đọc dần nhìn thấy nội tâm phong phú trong vẻ ngoài tưởng như già nua, đờ đẫn của bà. Ở bà, đồng thời xuất hiện cả con người lý trí và con người yêu cảm. Người có lý ko chỉ giúp bà hiểu đàn ông mình đã có gia đình nhưng nó còn giúp bà hiểu những trắc trở, nghèo túng nhưng Tràng phải chịu đựng; để rồi giúp bà hiểu ra rằng, chính số phận xấu số đã khiến các con chị phải sống trong hoàn cảnh trớ trêu tương tự. Còn người bà xúc động tỏ ra rất “cảm thương cho số phận của con mình”. Lời than vãn đấy, sự ngậm ngùi đấy vừa hướng vào bản thân bà, vừa hướng về đàn ông bà, vừa bộc lộ nỗi đau của chính bà, vừa mang tới tình thương cho đàn ông bà. Chính vì vậy nhưng biết bao cảm giác bà lão vừa đáng thương vừa nhân hậu!.
Xúc cảm của bà ngày càng dâng trào: “Ôi chao, người ta cưới vợ gả chồng cho con cái lúc nhà ăn nên làm ra còn mình thì…”. Đọc câu này ta có cảm giác như trái tim của người mẹ nghèo đang rung lên vì đớn đau, xót xa. Tình cảm của người mẹ bao hàm sự so sánh giữa người với mình và con cái trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng cho con. Sự so sánh đấy ko chỉ làm nổi trội sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình nhưng dường như còn chứa đựng sự trách móc của bà đối với chính bản thân mình. Một nỗi hờn tủi cho chính mình! Đó cũng là biểu lộ của nỗi thống khổ trong lòng bà. Nhưng tất cả đều là biểu lộ của tấm lòng nhân ái.
Nỗi xót xa còn trình bày ở sự quan tâm của bà đối với các con: “Ko biết chúng nó có nuôi nhau được qua cơn đói này ko?” Vừa tủi thân, vừa thương con khiến “hai dòng nước mắt lưng tròng”. Bà lão kìm nén xúc cảm, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào trái tim vốn đã chất chứa bao thống khổ của một kiếp lầm than. Nước mắt vẫn lặng thầm chảy ra từ đôi mắt đục ngầu của người mẹ già tội nghiệp. Đoạn văn ko chỉ là những câu tường thuật thuần tuý nhưng mỗi câu đều tràn đầy niềm ngậm ngùi của tác giả.
Diễn biến của câu chuyện đã tới hồi cao trào. Sự sắc sảo, tinh tế trong nghệ thuật mô tả tâm lí nhân vật của Kim Lân được trình bày khá đậm nét. Cả ba nhân vật đều có chung tâm trạng căng thẳng. Tràng và “vợ nhặt” chờ mẹ già lên tiếng. Lúc bà cụ Tứ hiểu ra chuyện, nỗi xót xa của bà lão “khẽ thở dài” vì bà muốn giấu đi nỗi buồn lo của riêng mình. Bà lão tạm dứt ra khỏi tâm trạng suy tư túc trực để nhìn người vợ nhặt, để “ngắm người phụ nữ” lúc nàng “cúi mặt xuống, tay sờ soạng vạt áo rách”. Bà cụ ko chỉ nhìn con dâu bằng con mắt nhưng còn hướng về con dâu bằng cả tấm lòng. Vì vậy, bà cụ nghĩ: “Người ta nhưng gặp bước gian nan đói khổ này thì chỉ tới con mình thôi, con mình mới có vợ…”. Trong suy nghĩ đó của người mẹ hướng tới hai nhân vật “người khác” và “con mình”. “Người” trở thành ân nhân và “con tôi” là kẻ mang ơn. Điều đó đã chứng tỏ rằng người mẹ già ko hề khinh thường người vợ nhặt nhưng còn thông cảm, kính trọng dù cô là một người phụ nữ rách rưới, nghèo túng, ko gia đình. Từ tấm lòng cho người vợ nhặt, bà cụ nghĩ tới phận sự làm mẹ, tiếp tục dằn vặt “ko thể chăm sóc con…”. Bà tin tưởng và hy vọng số phận tùy duyên: “May sao qua được đoạn này, đàn ông cũng có vợ, yên bề thất gia, chẳng may bà chết thì cũng yên lòng . Tình cảnh thật bi đát! Dù lo lắng, dù đau buồn nhưng dường như người mẹ đã chấp nhận “cô dâu mới” từ lúc nào ko hay. Sau lúc “khẽ hắng giọng”, bà lão “nhẹ nhõm” nói với “cô dâu mới”: “Được, được, thế thì phải duyên với nhau, mẹ cũng vui lòng…”. Mẹ vui vẻ nhận lời tự nguyện. Hai chữ “mừng lòng” nhưng bà cụ nói với các con thật giản dị và chân tình biết bao! Những lời nói giản dị đấy đã đem lại niềm xúc động và an tâm cho người vợ nhặt nghèo. Việc bà cụ Tứ nhận lời khiến ông Tràng “thở phào nhẹ nhõm, lồng ngực nhẹ thênh”.
Người mẹ nghèo nhân hậu thấu hiểu hoàn cảnh và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ bỗng chốc trở thành “con dâu” của bà. Tiếng nói độc thoại nội tâm ở đoạn văn này một lần nữa mô tả tinh tế tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ Tứ. Xúc cảm đấy như những đợt sóng cuộn lên trong lòng mẹ khiến người đọc ko khỏi ngùi ngùi. Ôi chao, tội nghiệp mẹ!. Tình mến thương con và ý thức trách nhiệm của một người mẹ khiến người mẹ lo lắng về việc cưới con bằng tất cả sức lực của mình.
Lúc đón “nàng dâu mới”, bà Tứ tiếp tục tâm tư, từ tốn dặn dò các con: “Nhà mình nghèo, vợ chồng mày bảo nhau làm ăn, rồi may ra ông trời cho. Biết sao được, người nào giàu ba đời, người nào khó ba đời, trong tâm tư của bà, có một lời thú nhận rất thiệt thà rằng “nhà ta nghèo”, từ lẽ đó, người mẹ đã nhắc nhở các con rằng, “Vợ chồng bảo nhau làm ăn”, dù nhắc nhở tương tự nhưng bà cũng động viên các con bằng câu nói rất thân thuộc trong dân gian: “Người nào giàu ba họ, người nào khó ba đời?”. trình bày sự sáng sủa của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh khó khăn, hơn thế nữa bà lão còn truyền cho người con niềm tin vào tương lai, là nguồn động viên quý giá giúp người con vượt qua thời kỳ khó khăn này.
Tâm trạng bà cụ Tứ vừa buồn, vừa vui, vừa lo. Trong lòng bà lão luôn bị ám ảnh bởi cái nghèo, cái khổ khiến bà lão “ngước mắt ra bóng tối che mắt bà. Xa xa, dòng sông trắng uốn khúc trên cánh đồng tối. Những ngôi nhà người chết trong gió cháy. Bà cụ thở dài thườn thượt.” Trong lòng bà cũng bị ám ảnh bởi nỗi xấu số về thân phận của mình. Vì vậy, trong kí ức của bà cụ “nghĩ tới ông già, nghĩ tới đứa con gái út. Bà lão nghĩ tới cuộc đời dài dằng dặc của mình”. Tất cả hiện lên như một cuốn phim dài vô tận, như một tấn thảm kịch của cuộc đời bà. Từ những xúc cảm đấy, nỗi băn khoăn lại một lần nữa xuất hiện trong bà, bà lo lắng cho những đứa con của mình: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau rồi liệu cuộc sống của chúng có khá hơn bố mẹ trước đây ko?…”. Dù lo lắng nhưng bà vẫn phấn đấu lại gần con dâu với lời mời thân tình: “Ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây kẻo mỏi chân”. Lời mời đó đã rút ngắn khoảng cách giữa mẹ và “con dâu”, đồng thời cũng xoa dịu được ít nhiều cho “vợ nhặt”. Lời mời của mẹ trình bày sự yêu quý và chấp nhận “cô dâu mới” của mẹ. Nổi trội nhất vẫn là tấm lòng thương xót của bà cụ Tứ với cô con dâu mới: “Bà lão nhìn người nhưng lòng đầy thương hại. Nàng nay đã là con dâu trong nhà”. Bà cụ tiếp tục tâm tư với người vợ nhặt bằng những lời lẽ thân tình: “Làm được vài mâm cỗ cũng đúng, nhưng nhà nghèo. Năm nay, nhà đói. Hiện giờ chúng nó thành hôn, bà cũng thấy đau xót … “. Qua lời bà lão chứng tỏ bà là người hiểu đời, hiểu người. Bà hiểu rằng cưới vợ cho con cái thì phải có vài mâm cỗ trước để cúng tổ tiên, ông bà, sau đó mới mời thôn ấp. Bà cũng hiểu lòng người, hiểu lòng bao dung của mọi người, họ sẽ thông cảm cho sự nghèo túng của Bà nhưng ko chấp nhặt, tính toán. Bà cũng hiểu đạo lý tạo nên sự gắn bó giữa vợ chồng chính là sự hòa thuận. Tới đây, bà cụ “ko nói được nữa, nước mắt cứ chảy dài”. Những giọt nước mắt của bà Tứ tràn đầy tình thương con. Những giọt nước mắt của mẹ là biểu lộ tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Nó quý giá hơn rất nhiều so với những thứ tầm thường nhưng mẹ dành cho con.
Tâm trạng của Tứ chiều hôm trước là sự lo lắng, vui, buồn lộn lạo, nhưng sáng hôm sau, tâm trạng của bà luôn ngập tràn thú vui. Thú vui đấy được trình bày trên khuôn mặt người mẹ: “mẹ nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn mọi lúc, khuôn mặt ủ rũ, ủ rũ của mẹ bừng sáng lên”. Thú vui còn trình bày qua hành động: “ quét nhà” của bà với suy nghĩ “sắp xếp nhà cửa cho khang trang, ngăn nắp thì cuộc sống của họ mới có thể khác đi, việc làm ăn mới có dịp khấm khá hơn”. Bà ko thể ko hạnh phúc lúc đàn ông mình thành hôn. Bà cũng trút bỏ được nỗi băn khoăn canh cánh trong lòng từ lâu, bữa cơm trước hết của ba mẹ con, dù chỉ là “rau chuối thái, đĩa muối ăn với cháo” nhưng “tất cả đều nói chuyện vui vẻ. Câu chuyện người mẹ già kể với con trong bữa cơm trước hết sau ngày cưới, tuy vẫn là chuyện làm ăn, gia đình nhưng trong câu chuyện của bà ko còn quá khứ nhưng chỉ còn tương lai. Câu chuyện của bà thật đơn giản! Đó là chuyện sắm gà, nuôi gà, có một đàn gà con nhưng mẹ nói với Tràng: “Tràng ơi, có tiền thì sắm một cặp gà, mẹ thấy đầu bếp làm chuồng gà ở đâu tiện lắm. , ngoảnh đi ngoảnh lại, có một đàn gà con ngay đó…”. Chính câu chuyện của mẹ đã khiến cuộc sống vui vẻ và ấm áp hơn rất nhiều. Tuy nhiên, bữa ăn ngày càng trở thành nghèo nàn khiến “chuyện bữa cơm vui vẻ chợt tắt. Nồi cháo loãng, mỗi người được hai bát lưng”. Tuy nhiên, bà lão “ vào bếp bưng ra một nồi khói bốc ngun ngút” và bà lão tấm tắc khen “chè đây, ngon quá”. Bà cụ dường như đang cố xua đi bầu ko khí u ám, cố quên đi hoàn cảnh khốn cùng bằng một thái độ vui vẻ. Bên trong vẻ tươi tỉnh đấy là một trái tim người mẹ đang thổn thức lo lắng. Bà lão “thiết đãi” cô dâu mới món đặc sản “cháo” nấu bằng cám tấm tắc khen “ngon ” và so sánh “xóm mình còn ko có cám nhưng ăn”. Qua đó, bà đã động viên các con, để các con có thêm sức mạnh ý thức vượt qua khó khăn, vất vả này. Cụ thể này khiến chúng tôi cũng phải rơi nước mắt trước tình cảm đáng quý và sự chân tình của bà. Kết thúc đoạn văn là giọt nước mắt của người mẹ, còn bà lão thì “mau ngoảnh mặt đi. Bà lão ko dám để giọt nước mắt rơi. Bà phấn đấu xua đi nỗi ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại và truyền niềm tin, thú vui cho các con. Trong tấm thân gầy guộc, héo mòn vì đói khát đấy vẫn bừng lên một ý chí sống mãnh liệt.
Qua truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã xây dựng một hình ảnh chân thực và cảm động về người mẹ nghèo hết lòng vì con. Ngòi bút tinh tế, sắc sảo của tác giả đi sâu phân tích diễn biến tâm lý phức tạp của bà cụ Tứ và trình bày điều đó qua từng lời nói, ánh mắt, trong suy nghĩ, hành động và cả sự trằn trọc cho tương lai của các con. Phải là một người có đời sống phong phú, hiểu và thông cảm, mến thương và tôn trọng những người nghèo khổ thì Kim Lân mới có thể diễn tả sống động và tài tình tới thế.
3. Bài mẫu 2 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Kim Lân là một trong những nhà văn chuyên viết về người nông dân. Những câu chuyện của ông luôn đơn giản và thẳng thắn như hình ảnh của chính anh. “Vợ nhặt” là tác phẩm của ông lấy bối cảnh những năm đói kém 1945, câu chuyện đầy thương cảm về những kiếp người nghèo khổ đùm bọc nhau trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”. Và sáng ngời trong cảnh đói khổ đấy là tình người dành cho nhau. Hình ảnh bà cụ Tứ – người mẹ già nghèo khổ với những xúc cảm, tâm trạng phức tạp lúc chứng kiến đứa đàn ông duy nhất “nhặt vợ” đã để lại nhiều ấn tượng thâm thúy trong lòng người đọc.
Nhân vật chính trong tác phẩm Vợ Nhặt là anh chàng tên Tràng, sống ở xóm trọ. Giữa những năm tháng đói khát, anh kéo xe thồ thuê kiếm sống và một lần, anh bắt gặp một người phụ nữ nghèo ngồi bên vệ đường để “chờ nhặt hột rơi vãi”, chị đẩy cùng anh xe bò kéo sau vài câu đùa vu vơ. Lần thứ hai anh gặp lại cô là lúc cô đói tới mức “gầy quá” và anh mời cô ăn bánh. Chỉ với bốn bát bánh, cô chấp nhận theo anh về làm vợ.
Có thể nói, tình huống truyện nhưng Kim Lân dựng lên là vô cùng lạ mắt và “không tiền khoáng hậu” trong nền văn học Việt Nam. Qua đó, ta chợt động lòng trước sự mỏng manh, nghèo túng của con người trong nạn đói, nhưng hơn hết là niềm xúc động mãnh liệt trước tình mến thương, đùm bọc lẫn nhau của những người dân nghèo giữa đói khát. Trong bức tranh ấm áp tình người ta còn bắt gặp hình ảnh người mẹ già với tấm lòng hết lòng mến thương con và người, đó là bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ – mẹ Tràng hiện lên chỉ qua vài dòng giới thiệu ngắn gọn của tác giả. Đó là một bà già, nghèo túng, cư dân trong xóm. Dáng đi của bà rất “luộm thuộm”, chậm rãi và “vừa đi vừa lẩm nhẩm điều gì đó trong mồm”. Bà xuất hiện với dáng vẻ của một người phụ nữ đầy vất vả và thống khổ. Bà có một cậu đàn ông nhưng chưa bao giờ nghĩ tới chuyện lấy anh, vì nhà nghèo quá, đói quá, người nào nỡ gả vào một ngôi nhà chỉ là “nhà hoang đứng co ro” để tiêu xài ko đủ? Vậy nhưng giữa lúc đói kém khốc liệt nhất, Tràng lại đem về một “người vợ”, người phụ nữ nhưng Tràng “nhặt được” lúc đi làm thuê. Ở cái thời buổi tới cái thân cũng ko lo nổi như thế này, lúc Tràng lấy vợ, bà cụ sẽ phản ứng ra sao? Bà sẽ chấp nhận làm dâu “chưa cưới” hay trách đàn ông đã “qua mặt”, “lấy lại nợ đời”?
Lúc thấy cậu đàn ông “dũng cảm” đón từ đầu ngõ, phản ứng trước hết của bà là bất thần. Một sự “bất thần” dâng lên trong lòng bà cụ, bà ko hiểu sao hôm nay đàn ông mình lại có thái độ lạ lùng tương tự! Và sự ngạc nhiên của bà càng tột độ lúc nhìn vào trong nhà, thấy một người phụ nữ khác đang “đứng đầu giường con bà” và “chào bà bằng u”. Bà lão “ngừng lại”, vẻ lo lắng dường như làm đôi mắt già “nhòe”, bà “chớp” mắt, cố “nhìn kỹ” người phụ nữ. Sự ngạc nhiên và bối rối bao trùm lấy bà lão tội nghiệp, bà vô cùng ngạc nhiên, ko hiểu chuyện gì cho tới lúc đàn ông lên tiếng.
Lúc đàn ông giảng giải mọi chuyện, bà bỗng “cúi đầu yên lặng”. Trong lòng mẹ là gì? Kim Lân đã khôn khéo dẫn dắt tâm trạng của người mẹ già đấy, khôn khéo để người đọc thấy được những thay đổi đang cuộn trào trong lòng người phụ nữ đấy. Bà cúi đầu yên lặng, nhưng trong lòng chợt hiểu, “bà già hiểu rồi”. Bà hiểu rằng đàn ông bà giờ đã có gia đình, có người khác bầu bạn, nhưng nếu lấy vợ giữa lúc túng quẫn nhất của cuộc đời thì sao?
Có nhẽ, người phụ nữ đáng thương đấy đã phải khóc nhiều lần trong đời, nhưng giọt nước mắt lần này lại khác. Đó là tình thương, là sự xót xa cho Tràng, từ “giọt nước mắt lưng tròng”. Giọt nước mắt đấy “vừa xót xa, vừa thương cho số phận đứa con của mẹ”. Tuy nhiên, bà cũng hiểu rằng nhà mình nghèo, con bà lại xấu xí, nay có bạn đồng hành, cô hạnh phúc biết bao! Cô vừa tiếc nhưng cũng vừa mừng cho con.
Mẹ càng thương con bao nhiêu thì mẹ càng thương chính mình bấy nhiêu. Bà tiếc thương cho số phận đáng thương của mình cả đời. “Ôi chao, người ta cưới gả con cái là lúc trong nhà ăn nên làm ra, còn mình…” Sự yên lặng trong dòng suy nghĩ của bà là sự tủi thân. Cả đời bà vất vả nhưng ko làm được gì cho con, thấy thương con vì ko lo được lấy chồng. Tới nay, lúc các con đã có vợ, bà vừa mừng vừa buồn.
Thương con, thương mình, rồi lại “ngậm ngùi nhìn người phụ nữ đấy”, bà chợt thấy thương người phụ nữ này. Người phụ nữ tội nghiệp đáng thương đấy đã phải đi tới “bước khó khăn, đói khổ này mới bám lấy con mình”. Bà thông cảm cho cô đấy, thông cảm cho sự cực chẳng đã của cô đấy, trái tim Bà đấy “đầy thương hại” cho người phụ nữ trước mặt.
Chỉ thế thôi nhưng người đọc có thể thấy rõ tấm lòng của người mẹ già đấy. Đó là tấm lòng của một người phụ nữ rất đỗi thương con và thương những người đồng hoàn cảnh như mình. Bà cụ Tứ ko chỉ thông cảm nhưng còn thấu hiểu nỗi lòng của người phụ nữ đáng thương, hiểu để chấp nhận nàng về làm dâu nhà mình. Sau cuối, bà cảm thấy sung sướng, hạnh phúc vì đứa con xấu xí của mình giờ đã có bạn đồng hành, bà mở lòng với nàng dâu mới “thôi thì hai đứa có duyên nhưng sống với nhau thì cũng vui”. Và bà cũng chỉ mong “làm được mấy mâm cũng được” để mừng con dâu mới vào nhà, nhưng giờ giữa cảnh đói khát này, bà chỉ mong “con bà hạnh phúc”. Đó là tấm lòng của người mẹ, tấm lòng của người phụ nữ đầy nhân ái!
Nhưng cùng với thú vui có dâu mới là nỗi lo lắng, tủi hờn tới tột cùng. Bởi Tràng và Thị tới với nhau trong hoàn cảnh “kẻ chết như ngả rạ”, những đứa con còn sống “xanh như xám”.
Họ tới với nhau là hạnh phúc, nhưng cũng là “nhận nợ đời”. Từ lúc biết họ lấy nhau, bà cụ rưng rưng nước mắt tự hỏi: “Ko biết có nuôi được nhau qua cơn đói này ko?”, những năm tháng đấy tưởng hình như là một thú vui tuyệt vời, cũng xen lẫn với những tiếng thở dài, xen lẫn với bóng tối của sự chết chóc, của tiếng quạ kêu: “bà lão nghĩ cho cuộc đời dài dằng dặc của mình. Nếu vợ chồng chúng nó lấy nhau liệu cuộc sống của họ có tốt hơn bố mẹ trước ko?”.
Tâm trạng bà cụ Tứ thay đổi lúc biết Tràng “nhặt thị” về làm vợ. Nó chuyển từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, từ ngạc nhiên tới thương cảm, từ hạnh phúc tới lo lắng vô bờ bến. Tuy nhiên, ta vẫn thấy được tấm lòng mến thương con của một người mẹ, sự đồng cảm và thấu hiểu của một người phụ nữ từng trải với một người phụ nữ xa lạ khác, và cả sự kính trọng của một người mẹ chồng. với con dâu mới trong nhà. Có dâu mới trong hoàn cảnh này là phải chia miếng ăn, sẻ đời nhưng bà lão vẫn sẵn sàng chấp nhận. Bà cụ Tứ đúng là người phụ nữ giàu đức hi sinh và tấm lòng nhân ái!
Tâm trạng của bà thay đổi ko chỉ trong buổi tối hôm đó nhưng cả sáng hôm sau lúc cô trở thành con dâu của bà. Nếu như trước đây, gương mặt bà “quạnh quẽ, u ám” thì hôm nay, gương mặt bà “nhẹ nhõm, khác hẳn ngày thường”, “sáng rỡ hơn hẳn”. Phải chăng một tia kỳ vọng sống mới đã nhen nhóm trong lòng bà lão? Một sự nhẹ nhõm, hạnh phúc, một niềm tin tràn đầy vào tương lai phía trước?
Trong bữa cơm đón dâu mới chỉ có “mớ rau chuối thái rối, đĩa muối ăn với cháo” nhưng cả gia đình ba người “ăn rất ngon”. Lễ mừng dâu mới thê thảm biết bao, nhưng trong lòng mỗi người lại tràn trề thú vui mới và một niềm tin vào cuộc sống. Bà Tứ trước kia ủ rũ tương tự, hiện thời sắc mặt rất xa lạ. Bà kể “hết chuyện vui, tính chuyện vui tính sau”. Đó là trái tim sáng sủa, yêu đời, ham sống của người mẹ già muốn truyền lại cho con cháu niềm tin về một cuộc sống mới hạnh phúc, đủ đầy hơn.
Bà cụ Tứ là nhân vật tuy chỉ xuất hiện ít trong tác phẩm nhưng lại để lại ấn tượng thâm thúy trong lòng mỗi chúng ta. Qua từng diễn biến tâm trạng của bà, ta thấy được tấm lòng của người mẹ già trong đói khát vẫn mến thương con, luôn truyền cho con một niềm sáng sủa sống, niềm tin yêu vào cuộc sống. Và ta còn bắt gặp hình ảnh người phụ nữ thôn quê nghèo nhưng giàu lòng nhân ái sẵn sàng san sẻ “nguồn sống” ít ỏi của mình với người khác trong thời kỳ đói khổ nhất của cuộc đời.
Có thể nói, Kim Lân đã diễn vô cùng thành công lúc mô tả diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ. Từng thời kỳ chuyển biến tâm lí phức tạp của bà cụ đấy được nhà văn mô tả rất chân thực và hợp pháp. Hình như tác giả đã đặt mình vào nhân vật đấy để cảm thu được những rung động thâm thúy nhất trong lòng người mẹ đấy!
Vợ Nhặt là tác phẩm hiện thực xuất sắc lúc phản ánh số phận và vẻ đẹp nhân văn đáng quý của những người nông dân trước Cách mệnh tháng Tám. Nạn đói kinh khủng đã vắt kiệt cuộc sống của con người nhưng đâu đó bên trong những con người như cụ Tứ, Tràng, người vợ nhặt vẫn còn một vẻ đẹp tiềm tàng đáng trân trọng, đó là vẻ đẹp của tình yêu, của sức sống mãnh liệt.
4. Bài mẫu 3 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Ko phải là nhân vật chính, xuất hiện lại ở cuối tác phẩm nhưng bà cụ Tứ – mẹ Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm thêm phần thâm thúy. Với tình cảnh Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói kém, Kim Lân muốn khắc họa số phận bi thương của người nông dân trước Cách mệnh tháng Tám, trình bày sự thông cảm, san sẻ trước khát vọng hạnh phúc. của những số phận xấu số đó.
Đúng trong hình ảnh và thật trong từng cụ thể, Kim Lân dường như ko kể nhưng dẫn ta tới chỗ bà cụ Tứ. Khởi đầu với: “vừa đi vào ngõ vừa lầm bầm điều gì đó”. Ta gặp lại dáng gầy gò, lum khum của người phụ nữ thân thuộc trong đời. Lẻ loi, chậm rãi sau sự “bất thần” trước sự tiếp đón khác thường của con, bà bước vào nhà. Lúc nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường của con mình, cô đã rất ngạc nhiên.
Hàng loạt câu hỏi hiện lên trong đầu óc già nua của bà. “Người phụ nữ nào lại đứng ở đầu giường của đàn ông mình tương tự? Ko phải cái đục. Đó là người nào? Sao phải chào mình bằng u?” Đúng vậy, bà ko ngờ rằng giữa năm nghèo túng, lại có người lấy con bà. Đọc những dòng này, tôi như thấy lòng người mẹ yếu ớt đang rung lên vì đớn đau, ăn năn. Việc quan trọng của đời mình, lẽ ra phải “làm vài mâm cơm”, nhưng “gia đình nghèo quá” nên bà chỉ nghĩ trong đầu, mình ko làm được.
Bà cụ thương đàn ông, hối hận rồi lại thương con dâu. “Người ta phải trải qua bước nghèo túng này, mới lấy con mình nhưng con mình mới có vợ…” Vừa mừng vừa lo, bà trằn trọc trước nỗi lo rất chính đáng của những người từng trải qua cuộc đời vất vả, thống khổ. Cố nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên đàn ông tin tưởng vào tương lai: “Vợ chồng bảo nhau làm ăn người nào giàu ba họ người nào khó ba đời? ” Bà nói với con dâu bằng giọng của một người từng trải – vừa lo vừa thương.
Từ ngạc nhiên tới khoảnh khắc lặng người “thấu hiểu ra bao điều”, từ những giọt nước mắt tội nghiệp, xót xa cho cô con dâu tới nỗi lo “ko biết nuôi nhau qua cơn đói” tới niềm hoan hỉ, niềm tin vào tương lai…, tất cả đan xen, hiện lên dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, trình bày tài tình trong từng suy nghĩ, hành động, lời nói. Thật ko lẫn vào đâu được cách nói vừa nghĩ vừa bối rối vừa nhân hậu của một bà mẹ già thôn quê.
Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa ghi lại một cách khách quan. Đặt nhân vật vào một hoàn cảnh ko gian và thời kì nhất mực, Kim Lân đã trình bày thâm thúy tâm trạng của nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi thấy “mùi đốt mùn của những ngôi nhà có người chết” nhưng “nghĩ tới ông già, nghĩ tới đứa con gái út”, tới “đời khổ của mình” rồi lại lo cho tương lai của con cái: “liệu chúng có tốt hơn cha mẹ của họ trước đây ko?”.
Nghệ thuật “biện chứng của tâm hồn” đã trình bày một cách tài tình trong từng biến thái tinh tế và phong phú của tâm lí người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu và trân trọng đặc thù, phải có một vốn sống phong phú tới mức nào mới có thể diễn tả chân thực và tài tình tới thế. Vợ nhặt ko còn là những trang văn, nhưng là những trang đời – những trang đời đẫm nước mắt đau thương, xót xa, lo lắng cho tương lai và rạng rỡ trong lòng người mẹ nghèo. Hiện thực nhưng cũng rất cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ ko chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tiềm thức nhưng người con vô cùng xúc động trước tấm lòng, trước tình mến thương tha thiết của người mẹ.
Lòng người đọc cũng dâng lên bao nỗi xót xa… Thú vui của bà lão tội nghiệp – thú vui ko thể cất cánh. Bởi lẽ, còn bát cháo cám, vẫn còn tiếng trống đập khiến thú vui ko trọn vẹn… “Bà ko dám để con dâu thấy mình khóc” nhưng người đọc có thể thấy rõ những giọt nước mắt nước. Trong thâm tâm, bà có thể thấy rõ những giọt nước mắt của Kim Lân lúc viết những dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim Lân đã để trái tim mình đập cùng nhịp với trái tim người mẹ nông dân nghèo…
Qua “Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo khổ suốt đời. Sau bà cụ Tứ, ta nhấp nhoáng thấy Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần sống hết lòng vì người thân.
5. Bài mẫu 4 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Thành công của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân trước hết là việc khắc họa đậm nét các nhân vật tiêu biểu: Tràng, bà cụ Tứ, người “vợ nhặt”. Tác phẩm là khúc ca thấm đẫm tình người, trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, con người vẫn cõng nhau, dắt nhau tiến về phía trước. Ko phải là con người Tràng hay “cô vợ nhặt”, nhưng chính hình ảnh người mẹ và bà cụ Tứ mới để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc về tấm lòng người mẹ, tình người, tình mến thương trong cuộc sống.
Kim Lân là nhà văn xuất thân từ từng lớp bình dân. Mong ước trở thành họa sĩ nhưng vì nhà nghèo ko có tiền ăn học nên anh tới với văn học như một cơ duyên. Chính cuộc sống nghèo khổ đã giúp Kim Lân có cái nhìn đầy nước mắt và đồng cảm với những mảnh đời nhọc nhằn. Ông đã xây dựng thành người lao động vật mẹ con cụ Tứ, một người mẹ nghèo trên bối cảnh nạn đói kinh khủng năm Đinh Dậu. Khó có thể tưởng tượng truyện ngắn Vợ nhặt lại ko có nhân vật người mẹ này.
Trước hết, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người phụ nữ tuy nghèo nhưng dù đã cao tuổi vẫn phải bươn chải kiếm sống. Ta có thể nhìn thấy điều này qua một vài cụ thể rất nhỏ: “Từ lùm tre, bà cụ đi vào. Tính nó vẫn thế, vừa đi vừa lầm bầm gì đó trong mồm…”. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc có cảm giác như một bà lão có ngoại hình nhỏ nhỏ, ko còn nhanh nhẹn, những bước chân chậm rãi, vất vả bước ra từ trong bóng tối. Giữa ko gian xóm trọ tồi tàn, người người “tối tăm” vì đói khát, ko khí “khốc lên mùi ẩm thấp của rác thải và mùi xác chết đói” cộng hưởng với tiếng “lẩm thiên bẩm toán” khiến chúng tôi sợ hãi. Còn gì có thể tính toán được trong cảnh “ko còn gì để mất” này? Vì thế, bà cụ Tứ đã bước tới để mang cả “bầu trời” thê lương vào lòng.
Tiếp đó, Kim Lân còn xây dựng nhân vật bà cụ Tứ giàu lòng mến thương, đức hi sinh, luôn mong ước có được cuộc sống hạnh phúc đủ đầy. Bà Tứ là một người mẹ luôn biết cách thấu hiểu cho đàn ông – cu Tràng, hết lòng mong con hạnh phúc. Điều này được trình bày rõ qua diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ xuyên suốt câu chuyện. Lúc đầu thấy anh Tràng chở một phụ nữ về, cụ Tứ “ú ớ”, “ngỡ ngàng”. Rồi bất thần hơn nữa, lúc người phụ nữ kia “chào bà bằng u”. Đã sống hơn nửa đời người, bà Tứ dường như dần hiểu ra mọi chuyện, hai mắt híp lại. Một câu hỏi lớn hiện lên trong đầu bà Tứ: giữa nạn đói kinh khủng này, ăn ko đủ no thì làm sao sống nổi? Bà hiểu tất cả, hiểu khát khao có một mái ấm gia đình nhưng thực tiễn phũ phàng ko cho Tràng thời cơ có một đám cưới tươm tất như bao người. Của hồi môn là vài bát bánh đúc, vợ là người phụ nữ “nhặt” được, thế nhưng, sau một hồi đắn đo, bà Tứ cũng “vui lòng” nhận. Đó chẳng phải là minh chứng cho khát vọng hạnh phúc gia đình của bà cụ hay sao? Bà Tứ ko chỉ thương con nhưng còn là người giàu lòng nhân ái, thương người cùng hoàn cảnh. Bà chấp nhận một người phụ nữ xa lạ làm con dâu dù “ko biết các con có nuôi được nhau ko”.
Bằng tài năng và sự đồng cảm thâm thúy, Kim Lân đã dựng nên “hình ảnh chân thực và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong nạn đói kinh khủng năm 1945”. Bằng tài năng, cùng tình cảm thiết tha với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa gây xúc động, day dứt với người đọc. Chính hành động, lời nói, nụ cười trên gương mặt u ám của bà đã làm bừng sáng câu chuyện sau bóng tối, tuyệt vọng của cuộc sống nghèo túng. Ý nghĩa nhân văn nhưng nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù bị đặt vào hoàn cảnh trớ trêu, kế cận cái chết nhưng vẫn ko đánh mất đi trị giá ý thức và phẩm chất tốt đẹp: lòng mến thương con cái, con người và thái độ sáng sủa hi vọng vào một tương lai tươi sáng dù chỉ là một tia hi vọng mỏng manh. Kim Lân đã phát hiện và trình bày thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.
Bạn thấy bài viết Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt bên dưới để bangtuanhoan.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website bangtuanhoan.edu.vn
Phân mục: Kiến thức chung
Nguồn: bangtuanhoan.edu.vn
[/box]
#Phân #tích #hình #ảnh #nhân #vật #bà #cụ #Tứ #trong #tác #phẩm #Vợ #nhặt
Bạn thấy bài viết Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt bên dưới để bangtuanhoan.edu.vn có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website bangtuanhoan.edu.vn
Nhớ để nguồn: Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt tại bangtuanhoan.edu.vn
Chuyên mục: Kiến thức chung